my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002)
Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)
9 September 1976 ….. With neither principle nor premise You went up your own ladder of greatness Is-it time for you to get down from pedestal And as a mortal, have a last look at your own life Bald bonze under your umbrella’s sky
….. Having our own life of absurdity We’re keeping you as a mummy Pharaoh of modern time Emperor of ancient era But you did not construct the great wall To shelter us from the hordes …………from our mean selves To unite us ….. together adrift on the waves of history Already we fighted each other to have pieces of your glory With you, we have also our farce to play We all are waiting for The Unknown, The Dumb, the True
…… Bald bonze under your umbrella’s sky The sun will be there forever For ever and ever shining Over the desultory world 8-2009
Nhà sư đầu trọc ……….lấp trời với chiếc dù không (trích)
9 tháng 9 1976 …… Không luật không kỷ cương và đạo lý Người trèo lên bậc thang của tượng đài Đã đến lúc phải bỏ bệ đá hoa Như người thường nhìn lại chính đời mình Nhà sư đầu trọc ……lấp trời với chiếc dù không!
…. Chúng tôi đây vô lý và vô thường Cố giữ người một thân xác ướp Pharaoh của thời hiện đại Hoàng Đế của thuở xa xưa Dù người đã không đắp vạn lý trường thành Để chúng tôi được đồng lòng ….cùng chống đối bọn vô lại …chống đối cả chính mình Những phận hèn trôi dạt ….. …đợt sóng bấp bênh lịch sử Chúng tôi giết nhau ……..tranh giành mảnh dư của vinh quang Với người chúng tôi cũng có vai hề hí kịch Chúng ta đều đón đợi Sự giáng trần … của Đấng không tên, không lời và Sự Thật
Nhà sư đầu trọc …..lấp trời với chiếc dù không! Mặt trời sẽ mãi mãi còn đây Tỏa sáng không cùng và bất tận Trên cõi đời ô trọc này! 8-2009
Le poème original Bonze chauve sous un ciel de parapluie
7 Septembre 1976
La cime perdue dans les cieux un nuage suspendu au flanc masjesté harmonieuse de milliers d’arbres perchés la montagne …….et tout en bas un sentier à peine perceptible un homme le gravit avec aisance seule tache mouvante sur un fond d’estampe
Homme sans loi et ni principe toi qui montais ton échelle de grandeur est-il temps aussi de descendre du piédestal de faire le bilan comme tout autre mortel Bonze chauve sous un ciel de parapluie
Ton regard s’est posé sur l’étendue des plaines avec le coursier blanc tu as traversé le désert tu as surmonté les cols les plus hauts de ta longue marche tu as fait une épopée humaine de tes rêves et de tes désirs tu t’es élevé à la grandeur de l’empire céleste Nous t’avons vénéré comme un poète glorifié Ne t’aurions-nous pas cru le dernier penseur des mortels?
Nous qui vivions de contradictions en contradictions esclaves de nos besoins absurdes et superflus dans le miroir nous ne retrouvions plus notre image le coeur bouleversé le ventre retourné par le souvenir de la pureté de notre enfance Tes compagnons se sont écartés livrant passage au stratège qui reculait pour prendre l’essor de la puissance nous nous inclinions devant le rêveur que nous puissions croire terre fragile sans forme argile malléable à l’essence humaine du renouveau
Comme c’est dérisoire le règne terrestre que de tourments dans ce royaume éphémère nous avons combattu des ombres qu’étaient nos ennemis et de nous-mêmes fantoches en papier prendrions-nous jamais conscience? Par un seul acte magnifié, à un quart de l’humanité tu aurais donné de nouveau la subsistance libérés de tentacules de profiteurs sans nom nous ré-affirmions la fierté de notre force prolétaire mais hommes libres et libres comme le cheval au galop comme un animal endormi au soleil nous cherchions inutilement et pour longtemps à reconstruire ton aventure et ta démarche
Ouvrir une porte et être confrontés avec l’absence nous ne pouvions oublier le passé ni nos liens d’antan dans notre coeur toujours la première larme et les premiers sanglots tu aurais aimé nous voir des êtres nouveaux balayer d’un revers de main notre ironie notre scepticisme et notre pessimisme frondeur De simples pions dans ta vision du monde nous qui avions tant renié d’héros que nous voilà sans guide et sans idole pour nous définir nous n’acceptions plus que le souvenir de ton air famélique de révolutionnaire traqué qui nous pointait du doigt vengeur un autre horizon
Etrangers les uns des autres différents de toi-même édifié dans l’honneur et renfermé dans la tour hautaine n’avions-nous aussi notre cité interdite faite de remords et de rêves lubriques Timonier de bateaux en détresse père omniprésent qui nous encadrerait dans chacun de nos actes et dans la moindre pensée tu professais notre mutation permanente et si nécessaire violente n’assurant même pas la continuité d’un règne tu aurais voulu nous épargner le carcan de la mort routinière tu nous avais prévenus des charlatans et des pontifes des madarins immondes qui déformeraient ton image et qui volontiers nous aliéneraient
Poussant jusqu’au bout notre absurdité nous allions te mettre en momie Pharaon de l’ère moderne à l’égal de l’empereur des temps anciens que n’aurais-tu pas construit la grande muraille pour nous protéger des hordes et de nous-mêmes nous réunifier nous dont l’esprit partait à la dérive et qui nous battions déjà pour le partage des miettes de ta gloire A chacun sa comédie à chacun pourtant son rôle nous attendions l’inconnu le muet le véritable
Oh! Bonze chauve sous un ciel de parapluie Le soleil brillera de nouveau et mille fois encore dans toute sa splendeur sur un monde probable (extrait du recueil de poésie: Nuages-Mây, Ngo Van Tao – Montréal 1988)
Quế Anh (oil pastel on paper) Dòng sông thời gian – The time-river
Time-River
The light waves of time-river Wash away the hurts and the pains To the quiet shore of my heart Silent cove for our frail happiness
Together and breaking away In the flow of time all the dead leaves Roses and memory of the past Lost summer in the shade of maple trees
Loving you with my forever longing heart Instant of joy and ephemeral tenderness Continual farewell in the eternal return
Just a whisper for a wish to die To love is to leave in sadness Lonely road to the serene hinterland 2005
Dòng sông thời gian
Sông thời gian lấp lánh những vì sao Cuốn trôi giấc mộng và những nỗi buồn Đâu bến cũ cho con thuyền hạnh phúc Đôi bờ phẳng lặng trong trái tim em
Thời gian là hội tụ và chia lìa Theo dòng những cánh hồng như ngấn lệ Kỷ niệm vời xa rạng rỡ mùa hè Bóng tùng ôm ấp bao lời tình tự
Xin chở đưa em đến cõi vô cùng Niềm vui thoáng hiện và ái ân xưa Sóng đời cứ thế mà trôi đi mãi
Có lời hẹn hò mang mang thương nhớ Và tình ta ôm giữ trong vòng tay Dẫu đắm chìm trong đợt sóng cô đơn Tháng 8 – 2009
Le sonnet original Le fleuve du temps
Le temps est un fleuve aux flots somptueux de lumières Emportant à jamais nos peines et misères Y a-t-il une rive au calme dans mon coeur Un port pour abriter notre frêle bonheur
Le temps qui nous réunit et qui nous sépare Garde dans son courant des pétales vermeils Les roses fanées souvenir de la blessure D’un bel été passé à l’ombre des tilleuls
A te bercer à l’infini de mon amour Instants de joie éphémère et ceux de tendresse Du permanent départ de l’éternel retour
Plus que le soupir, un voeu que tout disparaisse T’aimer, c’est déjà te perdre, ma solitude M’ouvrir la porte à la terre-béatitude 1999 (extrait de Papyrus-Ngo Van Tao 2000)
Quế Anh(oil pastel on paper)NgọnCây đời – The tree of life
Chữ Nôm và Quốc Ngữ
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn
Tiếng ta còn, nước Nam còn
Phạm Quỳnh (1892-1945)
.*Theo Việt Sử Lược, thì thời xưa ông cha chúng ta, người Việt Nam, ghi nhớ bằng lối thắt gút, tức là chưa có văn tự dù có thể ông cha đã tìm cách ghi âm.Tuy nhiên năm 1903, Vương Duy Trinh, tổng đốc Thanh-hóa, ghi chép những bài ca dao ở Thanh Hóa trong Thanh-Hóa Quan Phong, đã tìm ra một hệ thống chữ cái và một bài ca dao viết bằng thứ chữ ấy ở huyện Quan Phong, Thanh-Hóa, nơi nhiều người Mường, người Thái cư ngụ. Có lẽ đây là dấu tích chữ Việt cổ, thông dụng thời Hai Bà Trưng, rồi bị chính sách đồng hóa của Trung Quốc hủy diệt? *( TS. Nguyễn Thị Chân Quỳnh)
Lịch sử Việt Nam là ngàn năm anh dũng thoát ly Bắc Thuộc, duy trì văn hóa và ngôn ngữ của người Việt. Tuy bị ảnh hưởng sâu đậm nền văn minh Hoa Hạ (Trung Quốc), lý luận chữ viết và ngữ pháp bằng Hán tự, người Việt nam vẫn duy trì thổ ngữ, đồng hóa ngay cả Hán tự, tức nguyên là những Hán tự (chữ vuông tượng hình) nhưng với nghiã không bắt buộc phải hoàn toàn tuy rất gần với nguyên nghĩa và đọc lên với âm tiết Việt nam (theo học giả Maspero thì rất gần với tiếng Tràng An thời Đường), để có cả một cơ sở Hán Việt cho sự trưởng thành của ngôn ngữ Việt nam. Từ thời Nguyễn Trãi (1380-1442) với Quốc Âm Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1515) Bạch Vân Thi Tập, Lê Thánh Tông (1442-1479) Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, tới Đoàn Thị Điểm (1705-1748), Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Nguyễn Du (1765-1820) và Hồ Xuân Hương (cùng thời với Nguyễn Du?), tức là tới Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Truyện Kiều, Thơ Hồ Xuân Hương, là cả một lịch trình tiến triển rạng rỡ của ngôn ngữ Việt Nam trong thi ca, trong suy tư xã hội, đạo đức, nhân tình…
Sự cản trở cho sự truyền bá ngôn ngữ Việt Nam cho đến tận quần chúng, cho sự sáng lập một nền văn học có sách giáo khoa, có văn bản chính trị và luật pháp căn cơ,là chúng ta trong tất cả thời đại đó ( đến tận đầu thế kỷ thứ hai mươi) không có một chữ viết phổ thông phiên âm thích đáng (chắc chắn không thể là chữ tượng hình như chữ vuông Hán tự, vì ngôn ngữ Việt nam cốt yếu là khẩu ngữ). Dĩ nhiên vẫn cho được như vậy, là các ông cha đã biết tự tạo một thứ chữ để phiên âm: “Chữ Nôm”.
Tuy nhiên “Chữ Nôm” là gì? TS. Nguyễn Thị Chân Quỳnh cho ta biết, đó là những chữ vuông như Hán tự:
1)Chính là những chữ Hán Việt đã phổ thông đại chúng : như thành thị, an nhàn…
2)Một chữ Hán Việt nhưng dễ dàng đọc chệch đi thành âm Việt mà ta muốn ghi: tỉ dụ chữ “ni” 尼, của Hán Việt thêm dấu nháy “<” để đọc thành “này”.
3)Những Hán Tự khi đọc theo Hán Việt, khi thì đọc theo âm Việt tùy văn cảnh, như chữ 歲, theo Hán Việt thì đọc là “tuế”, theo âm Việt thì đọc là “tuổi”.
4)Phép hình thanh: Hai chữ Hán Việt ghép thành một, chữ bên tả chỉ nghĩa, chữ bên hữu chỉ âm (đọc theo Hán Việt). Tỉ dụ bên tả là chữ 石, Hán Việt là thạch (nghĩa là đá), bên hữu là chữ 多, Hán Việt là đa, ghép lại thành “đá” của tiếng Việt.
Một hệ thống không chính xác và không đồng tình nhất chí từ Bắc vào Nam (ngay như chính trong cách đọc Hán Việt). Chắc chính vì vậy. qua bao nhiêu thế kỷ, qua nhiều triều đại trước, không một thời nào có học giả hay cơ quan chính quyền nào đề xướng một tổ chức (một hàn lâm viện!) đứng ra chính thức sưu tập tổng kết những “chữ nôm” cho nền văn học của nước nhà.Chữ Nôm chỉ là dân gian tự lưu truyền ứng dụng, như khi viết tên người, tên làng tên đất bắt buộc phải trong thổ ngữ người Việt. Khi cần thiết, những nhà văn, những nhà thơ (tầng lớp trí thức sáng lập ra Chữ Nôm, không phải để truyền bá ra quần chúng mà nhất là để biết nhớ lại những tác phẩm của mình đã sáng tác trong thổ ngữ Việt nam) tự tạo những chữ viết thích ứng cần thiết. Nên không ngạc nhiên gì, chính Truyện Kiều của Nguyễn Du, dựa trên nguyên bản cổ chữ Nôm, còn những từ mà các học giả ngày nay vẫn tranh luận về cách đọc và về cách hiểu cho chính xác nguyên văn. Khi nhà Hồ, nhà Nguyễn Tây Sơn muốn dùng Chữ Nôm trong văn bản hành chính thì chỉ mang lại sự hoang mang, thất nhân tâm, chống đốicủa sĩ phu. Mà thật muốn đọc và viết được chữ Nôm, học sinh trước hết phải học nhiều năm Hán Việt!
Như những bộ lạc Âu Châu, trước Công Nguyên, qua sự thống trị của Đế Quốc La Mã, đã tiếp thu được văn minh La Mã, qua tiếng Latin, tiếp nhận “a,b,c” la mã (alphabet romain) để phiên âm và viết tiếng thổ ngữ của mình. Đó là một hành trình tiến triển của văn minh nhân loại. Người Việt Nam chúng ta, theo sự suy nghĩ của rất nhiều học giả, cũng đã may mắn nhờ sự tiên phong của những nhà tu giảng đạo giòng Tên, trước tiên là những người Bồ Đào Nha (portuguais), sau là Alexandre Rhodes (1591-1660), nhà tu giảng đạo người Pháp, người đã viết và in ra bài giảng đạo “Phép giảng 8 ngày”: bản Latin, đối chiếu với bản dịch ra Việt ngữ viết bằng “a,b,c” la mã, manh nha của chữ “Quốc Ngữ” của chúng ta hiện nay và đặc biệt nữa một Tự điển: Việt Nam (chữ Quốc ngữ) - Bồ đào nha - Latin(Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum -Rome1651). Dĩ nhiên về sau còn có những nhà tu hành giảng đạo Việt nam vô danh tiếp tục âm thầmđóng góp cải tiến Quốc Ngữ.
Đó là cơ sở giúp người Việt chúng ta tiếp nhận văn minh Tây phương. Văn học gia Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) đã tình nguyện từ bỏ trường tu đạo, mà ở đó ông đã học Pháp Văn, Hán Văn, chữ Nôm và Quốc ngữ, để giảng dạy chữ Quốc ngữ ( trong trường Thông Ngôn, 1862 – trường thông ngôn đầu tiên của chính quyền Pháp ở Nam Việt Nam ), và viết những bài văn Quốc ngữ trên tờ báoGia Định Báo (1865), tờ báo đầu tiên với ba thứ tiếng Quốc Ngữ, Pháp Văn và Hán Việt. Trương Vĩnh Ký cũng là người đầu tiên truyền bá Kim Vân Kiều, bản mà ông đã phiên âm từ chữ Nôm ra Quốc ngữ! Công lao lớn lao trong thời sơ khai đó, phải nói tới Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), người đã tra cứu thiết lập Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (khiêm tốn không phải là Tự Điển, nhưng đến ngày nay vẫn còn có giá trị như Tự điển tiếng Việt Nam Quốc ngữ). Thế hệ ngay sau là Phan Châu Trinh, của phong trào Duy Tân, sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục (1904) trường truyền bá Quốc Ngữ, là Nguyễn Văn Vĩnh, chủ nhiệm báo Đại Nam Đăng Cổ tùng báo (1906), tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở ngoài bắc, tận tụy tâm trí truyền bá Quốc ngữ. Có lẽ hai người đánh dấu nhất trong sự phổ thông Quốc ngữ trên toàn quốc đầu thế kỷ thứ hai mươi , sau Trương Vĩnh Ký ở trong Nam thế kỷ thứ mười chín, là Phạm Quỳnh (1892-1945), 17 năm làm chủ nhiệm tờ báo Nam Phong ( circa1917-1937), xứng danh là tờ báo mở kỷ nguyên Quốc ngữ của văn học Việt Nam; người thứ hai là Phan Khôi (1887-1959), nhà báo nhà biện luận, tác giả bài thơ mới lãng mạn đầu tiên của văn học Việt Nam : Tinh Già (1932), những bài báo với lời văn tân tiến sắc bén ngay từ những năm 1930 cho tận cuối đời ( thời kỳ vụ án Nhân Văn 1956 ở Hà Nội).
Nhìn lại đó là những đợt sóng tiến triển chập chùng, mà toàn quốc toàn dân chờ đợi, chỉ trong nửa thế kỷ đưa văn học Việt nam đến đỉnh cao hiện đại, với sự hoàn chỉnh Quốc Ngữ trong xuyết tả ( orthographe), trong ngữ pháp, trong hành văn của văn học Tiền Chiến (1930-1945): Thơ mới, tiểu thuyết nhân bản xã hội Tự Lực Văn đoàn, nhà văn Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, dịch giả Phan Khôi, Đặng Thái Mai… .. Điều đáng nói là Quốc ngữ qua tất cả thời gian đó thể hiện là ngôn từ chính đáng, thích hợp với tiếng nói (âm tiết) Việt Nam. Với Quốc ngữ, chúng ta có thể mất một số âm tiết nguyên thủy (vì không một hệ thống phiên âm nào có thể đáp ứng toàn khối âm tiết của một dân tộc). Nhưng Quốc ngữ đã thống nhất tiếng nói Việt nam từ Nam chí Bắc: người Trung uốn giọng nói cho ra dấu “ngã”, người Bắc cho ra phân biệt “trời với giời”, dân quê Hà Nam mất dần giọng “ngọng” “lờ thành nờ” “nờ thành lờ”…Đặc biệt nữa với Quốc ngữ, tiếng Việt nam dễ dàng thâu nhập những từ ngoại quốc viết ra nguyên thủy, hay đã viết ra trong cái phiên âm phổ quát (tiếng Anh!) với“a, b, c” la mã: như café, pizza vv, cốt yếu nữa những tên người, tên xứ: Putin, Clinton, New York, Paris…, không còn nạn đọc tên người tên đất qua Trung văn, Hán tự đọc theo Hán Việt: Paris thành Ba lê, Washington thành Hoa Thịnh Đốn….Ở điểm này, theo ý tôi, trong bản thống kê “a, b, c” Việt nam, chúng ta không nên ngần ngại tiếp nhận thêm những chữ “f” , “j”, “w” và “z” (đặc biệt để thu nhập những từ ngoại quốc).
Một điều nên nhấn mạnh là với Quốc ngữ, người Việt nam đi dần đến chỗ hoàn toàn không còn nạn mù chữ: khi một đưá bé sáu tuổi chỉ cần học năm đầu tiểu học, không hết năm đã biết đánh vần đọc Quốc ngữ. Vậy chúng ta có còn nên tiếc việc người Việt không còn dùng chữ Nôm nữa? Không còn dùng chữ Nôm nữa, chúng ta mất gì? Theo tôi nghĩ, chúng ta thật không mất gì, một khi đã đưa chữ Nôm vào “Bảo tàng khảo cổ”; với nghĩa là chúng ta vẫn tạo điều kiện cho những chuyên gia ngôn ngữ học, những học giả tiếp tục thâu lượm những chữ Nôm mới cho bản thống kê những chữ Nôm của ông cha, tiếp tục diễn giải ra Quốc ngữ những di tích còn có thể tìm ra được ( bia đá, trống đồng, trang giấy, ca dao…), có mang chữ Nôm. Như thế, cốt là người Việt nam chúng ta không quên rằng từ xưa, văn hóa Việt nam chúng ta đã có một nền văn học sống động trong đời sống thường ngày,gần gũi dân gian.
Tuy nhiên, chúng ta không thể quên dân tộc Việt Nam là một dân tộc có hàng ngàn năm “Văn hiến” (chữ của Bình Ngô Đại Cáo). Một nền Văn hiến, cá tính riêng biệt, nằm trong lãnh vực của văn minh Hoa Hạ. Chúng ta có từ xưa chữ viết “Hán tự”, nhưng đã đồng hóa thành “Hán Việt”. Đó là cơ sở, như trên tôi đã nhấn mạnh, cho sự hiện thành củavăn học Việt Nam, văn học Hán Việt và văn học tiếng Nôm. Tỷ như người Nhật, người Cao Ly, họ đều có một sự tiến triển văn học tương tự như chúng ta, nằm trong lãnh vực của văn minh Hoa Hạ. Họ rồi cũng có ngôn từ phiên âm thổ ngữ, cũng như những nền văn học cá tính riêng biệt, và họ không quên cái cơ sở nguồn gốc Hoa hạ của văn học mình. Đặc biệt người Nhật –người Cao Ly chắc cũng vậy – muốn thông hiểu văn học Nhật Bản với ngôn từ Nhật Bản, người ta phải biết đọc ít nhất hai nghìn hán tự (với âm tiết Nhật bản). Chính đây là vấn đề tôi muốn nêu lên. Trong trường hợp Việt Nam, chúng ta phải biết một phần chính yếu của ngôn từ chúng ta là Hán Việt! Một nhà văn, nhà báo Việt nam không biết nhận định từ Việt nam nào là Hán Việt, với ý sâu xa từng chữ (v.d. gia đình, từ Hán Việt: gia là nhà, đình, cái sân; gia đình: nơi cha mẹ con cái đoàn tụ - theo Tự Điển Hán Việt - Đào Duy Anh); thì lời văn của họ rồi chắc chắn sẽ thiếu sự thâm thúy. Quốc ngữ cho phép người Việt nam mở rộng đón nhận văn học Tây phương, người Việt nam thường quên lãng điều trên. Quên rằng những chí sĩ văn hào chúng ta thường có một gia tài Hán Việt sâu động. Ngay khi mở đầu truyền bá Quốc ngữ ở các trường học, các ông cha không quên nhấn mạnh ở mọi lớp học phải có những tiết Hán học ( ý là Hán Việt học). Như bây giờ chúng ta có nhiều Tự Điển Hán Việt giá trị ( Đào Duy Anh, Thồi Chiểu, Linh Mục Anthony Trần Văn Kiệm giúp đọc Nôm và Hán Việt vv..), dẫn giải Hán Việt bằng Quốc ngữ, tôi chỉ mong một học sinh muốn tốt ngiệp Trung Học Phổ Thông phải học ít nhất mấy chục giờ Hán Việt, không cần phải học mặt chữ vuông mà học truy khảo bằng Tự Điển Hán Việt hiểu sâu xa từng chữ những câu thông thường như: Tiên học lễ hậu học văn, Nhân chi sơ tính bản thiện,…., đọc một bài thơ Đường, những tác phẩm Hán Việt của cha ông đã phiên âm ra Quốc ngữ, đặc biệt như hai “ tứ tuyệt cú” sau, phản ảnh lịch sử tranh đấu độc lập tự trị của quốc dân Việt nam:
Quế Anh (acrylic on canvas 65x80 cm) Nhà anh nhà em – Our neighborhood
Under the sun
The time-river is flowing away Lost images on the waves of sadness I shall open wings of happiness With your hands going into the autumn
In your eyes the flame of memory My day-slumber will last for the summer Forgetful heart filled with tenderness Golden leaves under the twilight-sun
I shall overcome human frailty Short moments of the fleeting world Continual cycle of doubts and pains
To live sudden miracle in agony Loving you and breaking apart When all is changed in eternal recurrence 2003
Le sonnet original Sous le soleil de l’été
Que les heures passent vibrant de mon amour Et l’attente qui vient, tristesse monotone Pour t’aimer, j’entr’ouvre les ailes du bonheur A garder ta main le long du venant automne
Avoir la clarté de ton regard de jeunesse Dans le bruit continu de l’été je m’endors Mon âme baignée dans l’oubli et la tendresse Les feuilles scintillent de mille rayons d’or
Pour pouvoir dépasser la destinée humaine Les instants d’un rêve qui sera passager Dans le cycle infini de doutes et de peines
Rien qu’une souffrance à connaître et surmonter Celle de t’aimer puis devoir un jour te perdre Quand tout est à commencer et tout à renaître 1999 (extrait de Papyrus-ngovantao 2000)
Mặt trời mùa hạ
Ngại ngùng lưu luyến mãi tim anh Chậm rãi nỗi buồn không muốn qua Yêu em anh mở hai cánh rộng Đưa em cùng bước vào mùa thu
Nay mùa nở rộ hoa phượng đỏ Anh ngủ triền miên trong nắng hè Say sưa chìm đắm một giấc mộng Cành hoa rộn rã bướm vàng bay
Hồn anh chơi vơi xa cõi tục Bóng đen theo gió vội tan mau Không còn sầu muộn và nuối tiếc
Bừng tỉnh tiếng em hát ca vang Êm ả sợi dây tình day dứt Còn em không…. ………trong nhịp sóng luân hồi? Tháng 8.2009
Quế Anh (oil pastel on paper) Giữa trăng sao – On the poetry wings
The joy to live
That life has given me a surprise-gift Light touch of the poetry wings Song of bue birds from the sky To wake me in the quiet morning
To feel all the happyness in my heart The thirst for life and the need of giving hands Will you come back, my love and my dream Into my embrace to forget the time
For all the loving time appease my desires The unsane passion and the unwise drives As to see in your eyes the joy to live
Memory of past seasons by the flame-trees With acceptance, without regret, the serenity Time to love and time to die in humility 2005
Le sonnet original
La joie d’exister
Que la vie me réserve encore une surprise Un battement léger des ailes de la muse Le chant ténu de l’oiseau bleu du ciel lointain Pour me réveiller dans le calme du matin
Sentir tout le bonheur déborder de mon coeur Courant de la vie et la soif d’une présence Oh! Que tu reviennes, l’ombre de la douceur Dans le tour de mon bras pour oublier la mouvance
Oublier le temps qui passe, apaiser mes désirs Passions insensées et absurdes attentes Dans ton regard la simple joie du devenir
Souvenir des saisons couleur de flamboyantes Sans amertume sans regret, sérénité Le temps d’aimer et mourir en humilité 1999
Niềm vui ta sống
Cuộc đời còn cho ta một niềm vui Đôi cánh nhẹ bâng khuâng của nàng thơ Chim oanh tự phương xa vang tiếng hót Ta tỉnh giấc an bình giữa trời xanh
Trái tim ta lặng tràn đầy hạnh phúc Khao khát sống và khao khát tình yêu Má ta em đã xoa giùm giọt lệ Thầm nhủ ta quên những chuyện vô thường
Thời gian có trôi đi như nước chảy Cứ ôm mang dục vọng đời phi lý Hãy nhìn thấy mắt em hé nụ cười Bay bổng cùng em đến tận chân trời
Để tìm lại mùa hè xưa phượng nở Không sầu muộn và không buồn nuối tiếc Và yêu em! Dù rồi sẽ phải xa em Tháng 8.2009