ngovantao

Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

Duong Thu Huong



             Ngô Văn Tao   sơn dầu trên bố 80x100cm 2007
             (với cửa vào và thời gian của Quế Anh)

Abstract  “Les collines d’Eucalyptus”*, c’était d’abord, pourrait-on dire, une chronique de faits divers relevant dans un centre de détention de droits communs au Vietnam. Il était de fait un long roman, histoire d’un jeune lycéen emporté dans la tourmente existentielle de son homosexualité. Issu d’une famille bourgeoise, vivant dans une socíeté qui considère l’homosexualité comme un tabou de dépravation, le jeune homme se sentait obligé de quitter sa famille et de se perdre dans “la basse ville” pour vivre jusqu’au bout avec un déchirement moral et  profond sa condition d’être. Il était amené à tuer dans un acte de folie son mâle amant, acte symbolique de son propre suicide.
L’auteur Duong Thu Huong n’a pas pu donner à ce drame une dimension “théâtralement” humaine et tragique. Elle n’est pas arrivée à entraîner ses lecteurs à des considérations reflexives, envisageant avec empathie et urgence le fait de l’homosexualité, qui est socialement et ouvertement très actuelle.

Dương Thu Hương, nữ văn sĩ
Dương Thu Hương sinh năm 1947 ở Bắc bộ, trưởng thành trong thời đen tối nhất của Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Thời của Trường Chinh và Tố Hữu. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa thành lập ở miền bắc, nhưng cũng là đã đến những vụ án tố khổ cải cách ruộng đất, vụ án nhân văn giai phẩm,  với những trại cải tạo lao tù cho những văn nghệ sĩ như Trần Dần, Phùng Cung, Tuân Nguyễn…Và cũng là thời cực đoan ngăn sông cấm chợ, dân tình sống lao đao những năm dài, ngay cả sau nước nhà đã thống nhất, với “chế độ bao cấp” tuyên huấn dẫn đạo con người trong cái rách và cái đói.

Dương Thu Hương cũng là trưởng thành trong chiến tranh và loạn lạc, nước Việt Nam chìm đắm trong đau thương nội chiến  1960-1975, chiến trường đấu tranh quốc tế của đế quốc tư bản Âu-Mỹ với các chế độ theo chủ nghĩa Maxit-Leninit và Maoit. Nhưng may là  cuối thập niên 1960, nhà văn đã biết gia nhập đội “Thanh niên xung phong”  xã hội chủ nghĩa chống đế quốc tư bản, hơn nữa chắc vì như biết hát, biết múa, biết đóng kịch ngâm thơ, Dương Thu Hương được tiếp thu vào đoàn văn công, không phải tham gia trực tiếp vào chiến trường. Nên bà đã sống sót qua chiến tranh, và hơn nữa với thành tích cách mạng xã hội chủ nghĩa (có thẻ đảng viên của đảng cộng sản), nên năm 1980 được tuyển vào “lò đúc thép”, trường Nguyễn Du, trường đào tạo những cán bộ nhà văn thấu rõ lập trường tuyên huấn của đảng, biết viêt văn có căn cơ khoa học, lý luận có khúc chiết và thiết thực, luôn luôn phải lạc quan cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sự thật, Dương Thu Hương là nhà văn chuyên nghiệp vô cùng cá tính, chắc chắn đã tự thấy quá nhẫn nhục từ lâu rồi trong cái xã hội tuyên huấn ý thức hệ xã hội chủ nghĩa cực đoan, một xã hội nhân sinh rập khuôn con người như mất mọi bản năng tự do của “ con vật kiêu hùng” cá nhân tìm lẽ sống. Vào những năm 1985-1990, một luồng gió “đổi mới” đến từ Trung Quốc, từ Đông Âu, đổi mới trong kinh tế (không còn chế độ bao cấp), trong chính trị (chế độ tuyên huấn chủ nghĩa cực đoan lung lay), văn nghệ sĩ được cởi mở; Dương Thu Hương tức khắc tiền phong trong phong trào giải thoát tư tưởng của văn nghệ. Có lẽ nữ văn sĩ sẽ lưu danh với quyển ký sự sắc bén “Những thiên đường mù” (1988), lật rõ mặt trái của xã hội mà bà đã phải sống, một xã hội nghèo nàn chắt chiu, con người mất bản lĩnh lập thân, một xã hội mệnh danh là ngưỡng cửa cho một thiên đường tương lai trong xã hội chủ nghĩa Maxit-Leninit. Một ký sự sắc bén vì căn cơ thiết thực với những cảnh đời, những tình huống, những nhân vật điển hình (những cán bộ) được tả lên rõ từng nét, rõ từng sự việc vừa nhỏ nhen vừa tầm thường trong những trang văn gọn gàng minh bạch.

Những thiên đường mù” không được phổ biến trong nước, nhưng Dương Thu Hương đã nổi danh từ năm  1987 với tiểu thuyết :Bên kia bờ ảo vọng”, có thể thầm mang một triển vọng nghệ thuật nhưng trước hết là định rõ con người với những yếu đuối cá nhân, những dục vọng riêng tư, luôn luôn chạy theo hạnh phúc vừa vật chất vừa tinh thần, lạc lõng trong một xã hội chụp mũ bởi những chuyên đề ảo tưởng xã hội đạo đức bình dân túy. “Bên kia bờ ảo vọng” là một tiểu thuyết truyện tình như tất cả nhũng truyện tình tay ba, nhưng tức thời cũng là bản tuyên ngôn khẳng định tự do trong sáng tác văn nghệ, thoát ly cái cà sa thiết thực xã hội chủ nghĩa, cái mũ lạc quan cách mạng,  cái gông cùm vị đảng vị nhân dân.

Từ 1987 đến nay đã hơn ba mươi năm rồi, Việt nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa đã đổi thay rât nhiều. Ý thức hệ chủ nghĩa, đạo đức cách mạng chân chuyên không còn là môn bài, kinh tế bây giờ là tư bản thị trường, hỏa đầu đại gia, chính trị bè đảng “hoàng tộc áo đỏ” (les princes rouges= con cháu của cựu trào cách mạng), với hiện đại sự vấn đề tự do văn nghệ không còn là vấn nan cấp thiết mà vấn đề là chống tham nhũng, bênh vực công lý trước những sức mạnh đen tối âm thầm quyết đoán loại trừ mọi đối lập cạnh tranh bằng những bản án không lời. Vai trò của văn nghệ sĩ tranh đấu cho tự do trong sáng tác không còn là chuyện tức thời. Dù sao Dương Thu Hương như chính bà tự nhủ đã đến lúc ôm mang nỗi buồn của mùa thu, “hạt lệ như sương” (La vieillesse! Coulent les larmes, telle la rosée du matin), bà không còn mang nặng sứ mệnh tranh đấu chính trị cho tự do, cho con người nữa mà làm nhà văn viết truyện đời.

Dương Thu Hương là nhà văn có rất nhiều tác phẩm, nhưng là đảng viên đã bị khai trừ ra khỏi đảng, công khai thóa mạ những cán bộ lãnh đạo hội nhà văn nên những tác phẩm văn bút của bà không còn được phổ biến trong nước, nhưng từ năm 2006, bà đã định cư ở Paris (nước Pháp) một số tiểu thuyết của bà đã dược dịch giả Phuong Dang Tran dịch ra tiếng Pháp và phát hành ở Pháp. Đặc biệt năm 2014, tác phẩm sau cùng : Những ngọn đồi dầu gió” (Les Collines d’Eucalyptus*) đã được phát hành trong bản dịch ra tiếng Pháp và đã được nhật báo  “Le Monde” (Paris) giới thiệu một cách trang trọng. Chính vì vậy tôi đã tìm đọc quyển tiểu thuyết này.

Những ngọn đồi dầu gió”, đọc trong bản dịch nên khó cho tôi nếu muốn bàn luận về ngôn ngữ, nhưng dù sao tôi nghĩ bản dịch của Phuong Dang Tran rất trung thành, và hơn nữa sau mấy năm sống ở Pháp, Dương Thu Hương không tránh được có tiểu tiết, tình ý, tâm tư âu hóa nhưng không bị thấy lạc lõng trong bản dịch. Cốt yếu, tôi còn nhận ra Dương Thu Hương như vẫn là, không thoát được cái khuôn mẫu lò đúc Nguyễn Du. Những mẩu chuyện luôn luôn được trình bày căn cơ, không ngại dài dòng minh bạch, luận lý đến nơi đến chốn. Nhưng sự thật nghệ thuật phải tiệm lời, ẩn dụ. Tranh sơn dầu “ Phố Phái” chỉ vẽ những nóc nhà siêu vẹo, những mảnh tường vôi loang lổ rêu phong, những bóng người như không có mà vẫn cho người xem rung động hoài cổ, như mất mát cô đơn trong thăng trầm tuế nguyệt của lịch sử. Bài hát “Xin Trả Nợ Người” của Trịnh Công Sơn như một bài thơ, không nói thế nào và vì sao là “Nợ”, không có những cảnh chia tay, nhưng với những điệp khúc mông lung chìm đắm người nghe trong nuối tiếc, nuối tiếc tuổi trong trắng thơ ngây với tình yêu cao sang muôn thuở, nụ hôn nồng như in mãi trên vành môi, rồi chẳng biết rằng ai nợ ai hay chỉ là đời nợ ta, để nếu hai mươi năm sau có gặp lại người yêu thuở đó thì hãy xin cho nợ nhau một lần nữa để mang về tới kiếp sau.

Cái khiếm khuyết của nhà văn Dương Thu Hương là bà quá tham vọng, như chưa từng biết thế nào là nhà tù tội phạm, bà vẫn tả cho đến nơi. Muốn nói lên sự đói khổ, bà tạo một chuyện siêu thực, nhưng lại không siêu thực qua ngòi bút của nhà văn, chuyện hai người tù tội phạm ra ngọn suối mò tôm, một người mò được bảy con, nên người kia giết chết để tranh ăn sống bảy con tôm vì đương quá đói. Rồi bi hài mà lại không bi hài như là chuyện mấy chục người tù giữa đêm khuya mang ra mỗi người một cây nến để cùng nhau bắt rận trong môt cảnh “tếu” hoa đăng! Đặc biệt nhất là “Những ngọn đồi dầu gió” có nhân vật chủ đạo là Thanh, một chàng trai lại cái. Dương Thu Hương nghĩ với tâm lý học thuật có thể dựng lên toàn diện con người đó, từ buổi đầu sa ngã làm tình ra sao, cũng những suy tư vật lộn sống sao từng ngày. Với điểm cao trào (sic) là một hôm Thanh đã bỏ được người tình đầu, mơ màng ngồi nghe Mendelsson (sic) trong một quán rượu nghèo nàn, nghĩ lại thuở thơ ngây với những ngọn đồi xanh ở tỉnh nhà, gia đình cao sang thân yêu ấp ủ, bỗng nghe tiếng của Phu Vuong, người tình cũ, người đã mở đường cho anh phải đảm nhận dục tính, dẫn đưa anh vào cõi trụy lạc, Thanh tức khắc đứng lên đập Phu Vuong bể sọ!

Đọc Dương Thu Hương, tôi nghĩ tới “luỡng chi phân trạng bản thể của tác phẩm nghệ thuật” (la dichotomie ontologique de la création artistique), chữ nghề và chữ nghiệp. Nghề có nghĩa trần gian là nghệ sĩ sáng tác tài hoa nghệ nhân, sở trường điêu luyện, kỹ thuật hoàn chỉnh căn cơ. Nghiệp ( với cái nghĩa trong từ nghiệp chướng hay nghiệp phận của đạo Phật) là thi hứng theo Bùi Giáng, rung động lãng mạn hồn nhiên say đắm đam mê, và cũng có thể là chuyện nung nấu trong tâm trí hay tiềm thức để phải bộc lộ đột phá tự thông diễn giải chính mình cùng những khát khao uớc vọng tới một chân trời xa xôi nào đó. Tôi phải nói không đoạn văn nào trong tác phẩm “Những ngọn đồi dầu giólàm tôi nghĩ tới chữ nghiệp, như tôi đã từng nghĩ tới chữ nghiệp khi đọc những tác phẩm để đời như :”Chiếc lư đồng mắt cua” của Nguyễn Tuân, “Sống mòn” của Nam Cao hay “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng.

Tháng 4 năm 2014
Ngô Văn Tao

(*) Les collines d’Eucalyptus,  Duong Thu Huong, roman traduit du vietnamien par Phuong Dang Tran, 779 pages – 2014 Sabine.Wespieser editeur. Prix: 29Euros