ngovantao

Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

I.Kant

Quế Anh   acrylic on canvas 60x80cm   The Field (Toán gia?) 2012

Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy,
(Bùi Văn Nam Sơn dịch, nghiên cứu và chú giải)
 
Mỗi thời đại đều có những nghi vấn phải giải đáp, những thử thách phải vượt qua. Mỗi xã hội đều có “những ước mơ giáo điều” (Thái Thị Kim Lan), những nghịch lý mù quáng, ý đồ sai lệch, tư tưởng của những kẻ mạn nhận là tiếng nói của lương tri. Câu hỏi luôn luôn cập thời: Đâu là lương tri của thời đại? Thế nào là lý tính của con người hiện đại, của công dân.
Giải cấu và phản tỉnh” - như Jacques Derrida (1930-2004), triết gia cuối thế kỷ thứ 20 đã nhấn mạnh- là những điều triết gia, thi nhân, nghệ sĩ phải làm để thấy ra hư vô nằm giữa hai hàng chữ viết, thực thể đằng sau những mặt nạ và như thế mới thật là đảm nhận trách nhiệm của mình đối với xã hội, đối với cuộc đời. Tôi nghĩ chính trong dư duy đó học giả Bùi Văn Nam Sơn (BVNS) đã tận tụy dịch ra tiếng Việt tác phẩm của I. Kant “Phê phán lý tính thuần tuý” (Kritik der reinen Vernunft), và cốt yếu là nghiên cứu, chú giải dẫn nhập vào vấn đề “phê phán lý tính” của Kant hơn hai thế kỷ trước, như là sứ mệnh phải làm. Thật vậy, đọc BVNS, hay đúng hơn đọc Kant trong ngôn ngữ Việt, dưới cái nhìn cặn kẽ tổng quát của BVNS, chúng ta cũng sẽ biết tự đặt những câu hỏi “Tôi có thể biết gì? Tôi có thể làm gi? Tôi có thể hy vọng gì?” (I.Kant)
ba câu hỏi, bao nhiêu là cấp bách trong giai đoạn lịch sử giao thời này.

Đã từ lâu, chúng ta chỉ muốn vọng về thuở sống động, dồn dập trào lưu văn học: Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân, Nam Cao… Đã từ lâu chúng ta như bị đẩy chìm vào một thế giới mà ở đó không có lời văn và ngôn ngữ. Những nhà thơ, những nhà văn phải cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng rằng ngôn ngữ của chính mình và của những người xung quanh như đã khô cạn, không có âm hưởng, không có ngõ triển khai. Ngôn ngữ là “Sống”, cảm năng và giác tính tương quan trong vũ trụ xoay vần đối tượng và chủ thể. Trong một xã hội giả tạo, tư tưởng lần theo một đường rày, ngôn ngữ như mất hết sinh lực, thoi thóp chỉ nói lên được nỗi buồn luẩn quẩn của nội tâm, đời sống tỉnh lẻ xã hội rập khuân.
Công trình của BVNS, nghiên cứu và dịch thuật, thật là tiếng chuông đánh thức chúng ta ra khỏi tiêu cực bi quan. Cái phần tối ưu của dịch thuật là ngôn ngữ, thì tác phẩm của BVNS trước hết là những lời, những chữ thận trọng cân nhắc phản ảnh sự chân thành nghiêm túc đối với những nguồn tư tưởng đa dạng của con người. Chữ nghĩa của I. Kant nguyên tác cổ điển, lời văn của BVNS lưu loát hiện đại, dù dịch thuật phải đối chiếu phong cách văn học giáo trường, ngôn ngữ đột phá hiện sinh nhưng vẫn tàng lưu dư âm của quá khứ, quá khứ như thượng nguồn của dòng suối ngôn ngữ luôn luôn chảy dài.

“Phê phán lý tính thuần tuý” là quyển sách phải có trong mọi thư viện. Nó là dấu mốc của văn học Việt Nam chứng tỏ sự tiến triển không ngừng của ngôn ngữ Việt Nam, với tiềm năng tiếp xúc những vấn đề sâu xa triết học Đông Tây. Đọc đi đọc lại BVNS -những lúc chỉ một hai đoạn- chúng ta sẽ cảm nhận được sự hành văn tư tưởng. Cốt yếu nữa là chúng ta sẽ thể hiện được rằng vẫn tiềm tàng trong chúng ta một nguồn sinh lực -tiếp thu từ thuở nào, đến tự tiền thân?- luôn luôn sẵn đấy để chúng ta suy diễn nói lên được mọi khúc chiết của cảm năng và giác tính. Một niềm tin tràn đầy hy vọng rằng mạch sống tư tưởng, ngôn ngữ của chúng ta mãi mãi chảy mạnh, vượt qua những chướng ngại nghịch lý, những mâu thuẫn lịch sử tức thời.
I. Kant là giáo sư triết học sống -trong cái nhìn thế tục- một đời thật buồn tẻ và tận cùng cô đơn; nhưng chính vì cho riêng một ý chí nhất định đi tìm rõ ra lý tính của con người và suy tưởng với lý tính đến được tận đâu cho chân lý và đạo đức của nhân loại. Ông tận tụy nghiên cứu, nghiêm túc suy tư quá nửa đời mới nghĩ rằng ông có điều để nói: “Phê phán lý tính thuần tuý “ của ông chỉ xuất bản năm 1781, khi ông đã 57 tuổi. Nhưng triết luận của ông là một cuộc cách mạng tư duy triết lý, một cuộc cách mạng Copernic ngay sau thời Khai Sáng, mà các triết gia trên thế giới đến bây giờ vẫn thấy cần phải học hỏi, tìm hiểu và bình luận. Hơn nữa, theo tôi được biết, những tác phẩm của ông đều là những áng văn chương Đức ngữ bất hủ, mà những văn nhân đương thời như Goethe, Schiller…công khai tìm đọc.
Tương xứng với tầm thước vĩ đại cao siêu đó, công trình của BVNS dịch thuật nghiên cứu và chú giải chỉ trên một tác phẩm triết học của I. Kant đã là một văn phẩm đồ sộ hơn 1.300 trang sách, mà hầu hết các câu đều hàm ý bắt người đọc phải suy tư. Đó là sự đúc kết của hàng chục năm đèn sách. Một gương sáng của sự tận lòng học hỏi, hy sinh nghiêm túc “tìm đến gốc rễ của triết học”( T.T. Kim Lan). Tôi không ngần ngại khẳng định rằng việc làm của BVNS là một cống hiến lớn lao vô giá cho nền văn học và triết học Việt Nam.
BVNS có viết: “Đọc Kant là một sự vất vả cần thiết, hiểu biết ít nhiều về Kant là hành trang bắt buộc phải mang theo trên mọi nẻo đường suy tưởng”. Nhưng người Việt chúng ta được đọc Kant qua công trình dịch thuật và chú giải của BVNS thì thật là “một niềm hỷ lạc trí thức” (T.T. Kim Lan). Những ý thức căn bản của triết học qua đây trở nên sáng tỏ. Những thuật ngữ chủ chốt đều được phiên dịch chính xác ra thuật ngữ Hán Việt hàm xúc và có căn cơ. Hơn nữa những lời chú giải của BVNS mở rộng ra chân trời triết học xưa và nay. Chúng ta dễ dàng hiểu rõ Siêu Hình Học của Kant, từ bỏ những nghịch lý của Siêu Hình Học tu viện. Ý thức rằng mọi đối tượng (mọi hiện tượng) chỉ nhận thức được một khi đã quy nạp vào những phạm trù (những khái niệm) tiên nghiệm của lý tính, qua chú giải của BVNS chúng ta cũng biết đó là mầm mống của hiện tượng luận Husserl, của hữu thể luận “thử tại” Heidegger. Công trình của BVNS thật là một cơ sở mà chúng ta vẫn hằng chờ đợi, một cơ sở vững chắc để mở đầu cho nền triết học Việt Nam chính đáng của ngày mai.
.Triết học Kant, chính nó như thường biết là một kho tàng triết luận để khai thác, với bao nhiêu ý niệm (lý tính thuần tuý, lý tính thực hành, phạm trù tiên nghiệm, vật tự thân…) cần phải trở lại, trong sự đổi thay tư duy trí thức của nhân loại, để bình luận, triển khai hay bài bác. Trong phương diện đó, việc làm của BVNS đủ có một giá trị vô song là mở cửa cho triết học Việt Nam đi vào lãnh vực vô cùng sinh động và phong phú. Lãnh vực triết học Kant, lãnh vực của ba câu hỏi mà tôi đã nhắc tới: ta có thể biết gì? ta có thể làm gì? ta có thể hy vọng gì? Ba câu hỏi cũng là những câu ngàn đời của nhân loại: Sống là gì? Sống làm sao cho xứng danh làm người? Triết học Kant tự nó đưa đến ý niệm Tự Do và Đạo Đức, hai ý niệm mà bây giờ hơn bao giờ hết trong lịch sử chúng ta phải suy tưởng. Theo tôi được biết, I. Kant đã triết lý suy luận sâu xa trên hai ý niệm này trong: “Kritik der praktischen Vernunft” (Phê phán lý tính thực hành), tác phẩm xuất bản năm 1788. Chúng ta thật ước mong học giả BVNS sẽ tiếp tục nỗ lực hy sinh cống hiến cho văn học Việt Nam công trình dịch, nghiên cứu và chú giải tác phẩm tiếp theo này của I. Kant. Chính BVNS như đã thầm hứa hẹn, trân trọng nhắc lại những câu sau đây của Kant, trích từ “Phê phán lý tinh thực hành” ( nay đã xuất bản - 2*)
“Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ tới:
Bầu trời đầy sao trên đầu tôi
Và quy luật đạo đức ở trong tôi”
Những câu văn Đức ngữ, mà BVNS đã dịch lại như ở trên, đã được khắc trên bia mộ Immanuel Kant (1724-1804), những câu mang mang một niềm tin bất tận ở tâm linh trí tuệ của con người.
tháng 10 . 2004
Ngô Văn Tao

Immanuel Kant: “Phê phán lý tính thuần tuý”
Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nhà xuất bản Văn Học – Việt Nam 2004
hơn 1300 trang. Đặc biệt có bài dẫn luận dài 30 trang của Tiến sĩ Triết học  Thái Thị Kim Lan, với mục lục vấn đề và nội dung thuật ngữ dài 40 trang.
Bài bình luận trên của tôi đã đưa lên mạng Talawas.org năm 2004, nhưng tôi cảm thấy nên nhắc nhở lại, trước những thắc mắc và trăn trở của văn học Việt Nam hiện tại.
(2*) Immanuel Kant : “Phê phán lý tính thực hành”
Bùi văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nhà xuất bản Trí Thức- Hà Nội 2007


Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

So I'have lived!

Quế Anh   oil pastel on paper

So I’ve lived!
At the threshold of the sideral night of loneliness, I shall give up my soul and my abhored hopes to the coming eternal darkness.

For all the time of our disfigured dreams, in this world where all seems to be said and nothing to be shared, and with the wrench of our days, I did not try to hear the human cry, the existential one of mine.

I shall come and lie by the wall of looking-glasses, to find out the reflection of my own image, the purified shadows of my past desires.

I shall be back to the land, the home-country that I keep always in my heart since my childhood.

I am the warrior home-coming from exile, to find his house in ruin, in destitution, buried in solitude.
I shall drink the muddy water from the spring of the land, leaving behind the cities of lights, the concrete unending highways, realizing how vain were my flights and my struggles for an impossible ideal of beauty and justice.
Emaciated figure in rags and tatters, covered with dirts, under the rough sunny and humid summer sky of the tropic, I shall do penance for all my pretentions, my weaknesses, my utopies, living again -as the last deed against the silence- that tender embrace, the love look, the first grieving tears flowing down along my downy cheeks of yersteryears.

Như thế anh đã sống!
Để giờ đây, ở ngưỡng cửa đêm dài cô đơn, anh trả hồn anh và mọi đợi chờ cho vĩnh hằng đen tối.
Với thời gian làm đổ vỡ những mộng mơ, trên cõi đời này với tất cả những lời thổ lộ và những điều ôm giữ, những vật vã của cuộc sống, anh đã không nghe ra tiếng người đời,  tiếng than thở  của chính lòng anh.
Anh sẽ đi và nằm chết ở chân tường kính gương, nhận ra lại hình ảnh anh u mờ và bóng đen của những dục vọng không lường.
Anh sẽ đi và trở về nơi chốn cũ, đất nước quê nhà mà anh ôm mang trong tim anh từ tuổi còn thơ.
Anh sẽ là người lính bại trận, trở về tìm lại mái nhà xưa tan hoang, đổ nát và không một bóng người thân.
Anh sẽ uống nước đục của giòng suối nhỏ giữa đồng hoang, quên những đô thành ánh sáng, những đại lộ không cùng, để biết rằng anh đã trốn chạy và đấu tranh không đâu cho một lý tưởng viển vông hoàn mỹ và công lý.
Thân hình tơi tả, áo quần rách rưới, phủ đầy bụi đường, anh sẽ tìm lại khung trời kia, gay gắt nắng vàng và ẩm thấp của miền nhiệt đới, anh sẽ sám hối cho tất cả những tự kiêu, những yếu hèn và những không tưởng; anh sẽ sống lại -dù chỉ một giây phút thôi trước sự im lặng không cùng- nụ hôn xưa, đôi mắt nhìn thân ái và những giọt lệ khắc khoải đầu tiên lăn trên đôi má mịn của buổi mới làm người.
NVT

(extract from the original poem in french:”Caballero de la trista figura” in “Papyrus”)
(trích lại từ bài thơ tiếng pháp “Caballero de la trista figura” in trong tập “Papyrus)