ngovantao

Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Hai, 27 tháng 7, 2015

Tô Hoài


Quế Anh  oil pastel


Tô Hoài Hồi Ký
và tiểu thuyết
“Ba Người Khác”

(Nhân ngày giỗ thứ nhất nhà văn Tô Hoài, có nhiều bài báo chí nhận định về sự nghiệp của nhà văn. Tôi mạn nghĩ bài này sẽ đóng góp thêm cho chúng ta tìm hiểu Tô Hoài, vai trò lịch sử và sự nghiệp trong văn học.
Ngô Văn Tao )

Lịch sử luôn luôn duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Lê Đạt


Nói tới “ Hồi Ký” và tiểu thuyết có tính cách tự truyện lịch sử “ Ba Người Khác”, trước hết nên nhắc lại một vài chi tiết về bản thân tác giả. Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh năm 1920 tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bây giờ. Đã phát hành năm 1941 tập truyện “ Dế Mèn Phiêu Lưu Ký” và gia nhập phong trào Cứu Quốc-Việt Minh trước năm 1945. Được kết nạp tháng 10-1946 vào đảng Cộng Sản Việt Nam, tham gia kháng chiến chống Pháp với tư cách ký giả của báo Cứu Quốc, cơ quan ngôn luận của Việt Minh, của đảng mà Xuân Thuỷ, cố bí thư trung ương đảng, làm chủ nhiệm, và rồi sau Tô Hoài từng thay Xuân Thuỷ làm chủ nhiệm.

Đặt rõ vị trí của Tô Hoài trước lịch sử, cũng nên nhắc lại năm 1946, Tô Hoài đã là chính trị viên giám thị cuộc Việt Minh hành hình xử bắn đội ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng ( Cát Bụi Chân Ai, nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2005, trang 210). Trong phong trào giảm tô, Cải Cách Ruộng Đất 1953-56, Tô Hoài đã làm phó đội trưởng một đội cải thổ (cho một huyện hay một xã?), nhưng đặc biệt nhất là làm chánh án kết tội cường hào địa chủ, có bổn phận nữa làm những bản án giả để liệu đối đáp với dư luận nhân đạo quốc tế (CBCA trang 119). Qua những sự kiện nửa khép nửa mở nhắc nhở trong các hồi ký, chúng ta hiểu Tô Hoài đã là một đảng viên hệ trọng nằm trong mật vụ, trong uỷ ban trung ương tuyên huấn, chỉnh huấn của đảng, bên cạnh những đảng viên như Xuân Thuỷ, Tố Hữu ( và Lê Đức Thọ? ).  Tô Hoài đã làm nhân chứng cho những cuộc kết nạp vào đảng của những nhân vật như Nam Cao, Nguyễn Tuân…, nhân chứng bên trong hay bên ngoài cho cuộc kiểm điểm chỉnh huấn Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng…Đúng hơn nữa làm tổ trưởng của tổ chỉnh huấn kiểm điểm những nhân vật lớn của văn học Việt Nam: Phan Khôi, Tú Mỡ, Văn Cao, Nguyễn Công Hoan, Trần Đức Thảo…(CBCA trang 116).

Một đảng viên hệ trọng của đảng Cộng Sản Việt Nam, đóng một vai trò không nhỏ trong suốt thời cách mạng xã hội chủ nghĩa (1945-1988), Tô Hoài còn là một nhà văn trong ban lãnh đạo tư tưởng văn nghệ của đảng, chắc chỉ sau Trường Chinh, Tố Hữu. Năm 1957, Tô Hoài hoạt động cùng sáng lập ra Hội Nhà Văn Việt Nam, làm phó thư ký, tổng thư ký của hội từ năm 1957 tới năm 1980. Từ năm 1986 tới năm 1996 còn làm chủ tịch của Hội Văn Nghệ Hà Nội.

Vào tuổi gần 70, Tô Hoài bắt đầu nhìn lại cuộc đời, thu nhặt những hồi ký đã viết từ năm 1970 và viết thêm vào những năm  1990 tổng cộng đến ngàn trang sách hồi ký: “Tự Truyện”, “Chiều Chiều”, “Cát Bụi Chân Ai”, “Những Gương Mặt-Chân Dung Văn Học”. Nếu kể cả tiểu thuyết : “Ba Người Khác”, xuất bản năm 2007, nhưng thật viết xong năm 1992, theo chính lời của tác giả một ký sự dẫu mơ màng về kinh nghiệm tác giả  sống trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất, chúng ta có tới ngàn năm trăm trang sách hồi ký của Tô Hoài, nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng, cán bộ cấp lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Vấn đề là chúng ta có đấy không một bức tranh hoành tráng cho thời đại 1940-1990, thời đại lớn lao mang bao nhiêu biến thiên, bao nhiêu sự kiện của lịch sử Việt Nam.



Tô Hoài bản chất là nhà báo, ký giả của báo Cứu Quốc. Nếu ở thời phong kiến Pháp thuộc, ký giả báo chí thường lo viết sao dù có bị kiểm duyệt, nhưng bài mình viết với những khoảng trống (kiểm duyệt) vẫn còn có thể đăng tải trên báo, nói lên một phần nào sự thật. Đến khi tất cả báo chí phải có nhiệm vụ tuyên truyền, duy trì đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, phục vụ giai cấp lao động và bần cố nông, vấn đề của ký giả nhà báo là phải luôn luôn cảnh giác, tránh hàm hồ bị buộc tội thành phần tư sản, trí thức vọng ngoại…. Nên chúng ta không ngạc nhiên gì như tât cả những ký giả xã hội chủ nghĩa, Tô hoài nằm trong chế độ phải biết mơ màng, sự thật không phải là tiêu chuẩn. Ký giả phải biết thêu dệt, nếu cần phải làm méo mó sự kiện. Họ sáng tác những câu ca dao, làm như họ đã đi vào lòng dân nghe ra tiếng nói truyền thống hàng trăm năm trước của làng quê. Họ học qua cái gương của Trần Dần; nhà báo quân đội, Trần Dần trong ký sự về chiến thắng Điện Biên đã gần như bị kết án vì đã viết tới cái kham khổ của dân quân, đáng lẽ phải chỉ nói tới cái oai hùng dũng cảm, lạc quan chiến đấu của bộ đội. Sáng tác những câu ca dao, nói lên chỉ một phần sự thật nhiều khi còn chưa đủ, họ phải biết tạo dựng những nhân vật anh hùng ảo. Tô Hoài thêu dệt vẽ ra nữ dân quân du kích hồ Ba Biển. Nhà báo quân đội Phan Vũ nguỵ tạo ra tiểu anh hùng Lê Văn Tám ( Công Viên Lê Văn Tám, góc Hai Bà Trưng- Điện Biên Phủ, TP HCM)!

Đã viết hàng ngàn trang sách báo, bao nhiêu truyện ngắn, bao nhiêu ký sự, Tô Hoài cũng thật là nhà văn, giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, 1996. Tô Hoài sinh năm 1920, tức là thuộc về lớp văn nghệ sĩ tới ngay sau Tản Đà, Tự Lực Văn Đoàn. Những nhà văn Nguyễn Tuân, Vũ Bằng (sinh năm 1910), Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, những nhà thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, những nghệ sĩ Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm( sinh năm 1922)…,cả một lớp người đánh dấu một chương lịch sử của văn học nghệ thuật Việt Nam. Họ đã tốt nghiệp, trưởng thành vừa trước cuộc cách mạng tháng 8-1945, một cuộc cách mạng lớn lao phá vỡ mọi hệ thống xã hội, đặc biệt hệ thống văn học của thời phong kiến Pháp thuộc. Cái hệ thống văn học này dù bị hạn chế bởi bọn quan lại thực dân phong kiến, nhưng vẫn gián tiếp một cách nào đó qua sách báo, qua nghệ thuật tự do tư bản, đã nung nấu đào tạo lớp nhân vật trên, những nghệ sĩ tài danh biết tự đặt những câu hỏi cốt yếu về cuộc đời, về xã hội con người với tâm linh và nhân bản.

Tuy nhiên thuộc thế hệ đó, được độc giả biết đến từ năm 1941, đã viết nhiều truyện ngắn vào những năm 1940-45, đặc biệt hồi ký tuổi thơ “ Cỏ Dại “ 1943, Tô Hoài trong những năm đó không phải là nhà văn có bản năng tầm cỡ của Vũ Trọng Phụng với phóng sự tiểu thuyết “ Giông Tố “, “ Số Đỏ ”…hay của Nguyên Hồng với tự truyện “ Những Ngày Thơ Ấu “, với “Bỉ Vỏ “…Chúng ta không nên quên rằng  Tô Hoài mơ ước trở nên nhà văn, nhưng thời trẻ phải lao động chân tay (  bán giầy cho Hãng Bata ), tham gia ngay từ năm 1937-38 tranh đấu trong hội Ái Hữu công nhân ( “ Những Người Thợ Cửi” ,hồi ký 1971), hoạt động cho Truyền Bá Quốc Ngữ, thành phần của tiểu tổ cách mạng bí mật Việt Minh. Theo chính lời của tác giả: “Từ khi biết nghĩ điều hay cho những ao ước của mình, tôi chỉ một mạch nghĩ theo cách mạng…Những sáng tác của tôi còn nhiều thiếu sót dường như tự nhiên chủ nghĩa, nhưng gốc (là)  tôi giữ được cho tâm hồn cái dáng dấp lý tưởng mình theo đuổi từ khi chưa làm nghề văn.” ( trang 250 “ Một Quãng Đường”, trong tập Hồi Ký, nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Hà Nội 2004 ).

Dáng dấp lý tưởng gì? Đó là vấn đề chúng ta cần phải tìm hiểu. Nhưng trước hết là khi đã có tên tuổi, chức vụ  từ năm 1946 cho đến tất cả về sau, từ khi Việt Minh đã đoạt được chính quyền và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài cốt yếu là cán bộ chính trị, ký giả cho những báo cơ quan ngôn luận của đảng. Trong sự nghiệp viết văn, Tô Hoài viết văn theo tư cách ký giả nhà báo. Viết văn theo tự nhiên chủ nghĩa! Mơ màng, tưởng thấy gì tưởng nghĩ gì viết nấy  nêú có đắn đo thêu dệt thì vì phải theo luật tự nhiên bảo tồn chức vụ, sứ mạng đảng viên, duy trì sinh kế trong chế độ. Vào tuổi 70, ngồi viết hàng ngàn trang hồi ký, Tô Hoài cho người đọc thấy ông “ung dung nhẩn nha” với những kỷ niệm mơ màng; ông như luyện dưỡng sinh, mỗi ngày viết một mẩu truyện năm sáu trang sách. Văn của Tô Hoài chân phương trải dài, chữ nghĩa “nhặt nhạnh” từ những người những cảnh đã gặp, đã sống (theo chính lời của tác giả). Cũng chính theo ông, Tô Hoài không tự đặt vấn đề “nghệ thuật”. Nghệ thuật trước tiên là trầm mặc suy tư một câu hay một chữ mà mình đã viết, nghe nó vang vọng trong tâm hồn trong tư duy. Chỉ một giờ như thế phẳng lặng định thần có thể cho những câu văn của nhà văn một nhịp điệu ẩn dụ, một điệp khúc tâm tư âm thầm nhắc nhở một nỗi đau lòng, một nhớ thương, một niềm vui xa vắng. Tô Hoài viết gì bữa nay, ngày sau ông dửng dưng viết sang chuyện khác. Đọc hồi ký của Tô Hoài mà đặt câu hỏi về nghệ thuật của nhà văn, hay nói phóng đại rằng Tô Hoài là nhà văn lớn thì chỉ làm bận lòng tác giả.


Ký giả nhà báo nhẩn nha đi tìm thực tế, tìm trong ký ức không có định kiến gì về sự tuần tự của thời gian những mẩu chuyện nửa ảo nửa thực của dĩ vãng. Ngàn trang hồi ký của Tô Hoài không thể là sử thi của thời đại mà ông sống, nó cũng không là ký sự phác thảo thời đại. Nếu cuộc tổng khởi nghiã Việt Minh tháng 8-1945, mà Tô Hoài trực tiếp tham gia bên Như Phong, Nam cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Hữu Đan…được khá nhiều nhắc nhở, nhưng cuộc kháng chiến chống Pháp, chiến trận Cao Bằng, chiến thắng Điện Biên, cuộc khải hoàn tiếp quản Hà Nội, rồi sau chiến thắng Mùa Xuân 1975 thống nhất đất nước đều như không để lại cho Tô Hoài một ký truyện đáng kể gì. Tô Hoài là đảng viên trung thành cấp cao của đảng, nhưng những lãnh tụ lịch sử Nguyễn Ái Quốc, Trường Chinh, Tố Hữu, Xuân Thuỷ…mà ông phải nhiều lần tiếp cận, chỉ thoáng hiện trên hai ba dòng của hồi ký. Tô Hoài chỉ viết những mẩu tự truyện của đời ông: “Bao giờ tôi chẳng lấy đời tôi ra để viết. Lại như bảo đây là chuyện có thực ư? Vâng thực cả, nhưng chữ thực kia cũng có năm bảy đường, mỗi người có sự thực của riêng mình, mà cả những mơ hồ ảo tưởng của người ta rút cục cũng thực nốt.” (Tô Hoài)

Những mẩu chuyện của một đời người, nhưng đây không phải là hồi ký “Yêu Và Sống” của một tài tử Lê Vân; chúng ta có đây hồi ký của một nhà văn lão thành. Nhà văn Nguyễn Khải từng nhận xét, có những đoạn văn rất hay, nhưng quá thừa thãi như không nằm chung một mạch văn nào. Theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn, thì cũng thật là có những mẩu chuyện như chuyện kể lại ông già và con chó (trong”Chiều Chiều”) tự nó có thể hoàn chỉnh là một truyện ngắn. Nhưng bản thân Tô Hoài chỉ bận tâm đến ký sự, nhưng là ký giả sắc bén nhận ra những chi tiết độc đáo của việc đời. Hơn nữa, Tô Hoài như ta biết có một cuộc sống rất dài, rất rộng bao quát hơn một nửa thế kỷ lịch sử. Hồi ký của Tô Hoài là ký sự những chuyện (có thực hay không thực) đã sống; người đọc bị lôi cuốn vào màn ảnh đời của một nhân vật. Cái phần đời riêng tư, kín đáo nội tâm nhưng của Tô Hoài, cuộc đời đó cùng những suy tư mơ màng nửa che đậy, cũng đưa người đọc cảm ra cái hồn chơi vơi của một xã hội, xã hội Việt Nam giờ này cũng như trong nửa thế kỷ vừa qua.

Nhà phê bình Vương Trí Nhàn cũng lại nhận định rằng tập hồi ký của Tô Hoài là “cả một cuốn sách quay đầu về với cái cũ”. Nhất định là hoài cổ rồi! Nhớ nhung cái thời  phóng đãng 1938-45, nghệ sĩ tìm ăn tìm sống vào nam ra bắc, la cà xóm Khâm Thiên, tụm năm tụm bảy quanh bàn thuốc phiện nhưng viết ra những trang sách để đời. Trong “Những Gương Mặt-Chân Dung Văn Học”, khi nói tới Nguyễn Bính thời đó, Tô Hoài có những lời văn rung động thi ca như chưa từng có. Chuyện kể gặp lại Vũ Bằng ở Sài Gòn năm 1975,  Tô Hoài biểu lộ tình cảm tha thiết thầm lặng đối với tác giả của “Thương Nhớ Mười Hai”, ký sự tuỳ bút mà Tô Hoài thật muốn rập khuôn theo nhưng thiếu cái hồn nhiên trữ tình. Cũng theo Vương Trí Nhàn, Tô Hoài đã từng nói: “Cái đời sống sắp tới chẳng có gì lạ đối với tôi. Tôi đã có cái nhìn khác từ lâu rồi. Thời nào tôi vẫn là tôi. Có một quá khứ chưa ai biết của tôi bảo đảm cho điều đó.”  Dĩ nhiên là với một tấm lòng hoài cổ, người ta đều sẵn có một tâm tư bất biến tự tại. Ở Tô Hoài, nó lại còn như mang theo một uẩn khúc. Đọc Tô Hoài, cái hình ảnh  mà tôi thấy trước nhất là của một nhân vật (lãnh đạo tuyên huấn, quan toà chánh án toà án nhân dân, tổ trưởng tổ kiểm điểm chỉnh huấn) vừa biểu quyết dìm một người thân mà mình nể trọng xuống bùn đen hay ra lệnh đưa dẫn người đó vào cõi vĩnh hằng đen tối, biểu quyết theo đám đông, biểu quyết như thế vì không còn cách nào khác để chính mình tồn tại, hưởng thụ cuộc đời; rồi sau đó nhà chính khách trở về phòng riêng nghe một bản nhạc, đọc một bài thơ trữ tình hay viết mấy câu văn, thầm tự khẳng định rằng mình chưa mất hết linh hồn hãy còn biết hối tiếc.
        

Tô Hoài cùng chia với Nam Cao một lý tưởng. Những khi bụng lép ( một đứa con của Nam Cao chết vì thiếu ăn trong nạn đói 1944-45), những khi phóng đãng hai nhà văn trẻ vẫn tin ở sứ mạng của văn chương nghệ thuật, ước vọng một tương lai đại đồng, đưa tay đến những người cùng khổ. Hướng tới một chân trời nào rộng rãi tự do. Tự do như núi cao, như sông dài (Tô Hoài). Nam Cao, Tô Hoài theo nhau gia nhập phong trào cứu quốc Việt Minh. Tô Hoài được kết nạp vào đảng năm 1946. Chính Tô Hoài làm bí thư chi bộ đảng kết nạp Nam Cao 1947. Họ gia nhập đảng với một tâm hồn trong trắng lãng mạn tin ở tương lai, xây dựng một  xã hội tự do nhân đạo và công lý. Nhưng bánh xe lăn của lịch sử bao giờ cũng tàn bạo. Những cuộc cách mạng lớn lao, như cách mạng 1789 Pháp quốc, cách mạng tháng 10 Liên Xô, cách mạng tháng 8 Việt Nam đều mang theo những lệch lạc, những hy sinh vô nghĩa lý, những vật tế thần thí sinh đưa lên bàn thờ của những ý thức không tưởng. Ngay năm 1951, Nam Cao đã là nạn nhân mà giòng sông lịch sử tàn bạo cuốn chìm đi. Tô Hoài người ở lại, biết lèo lái cho con thuyền của mình nổi trôi bồng bềnh theo giòng nước.

Lèo lái là tự bảo vệ, đành làm và đành nói những điều mà mình không muốn, biết đeo mặt nạ, giấu kín tâm tư, từ bỏ những hoài bão cao xa (tiểu tư sản?).  Hồi ký của Tô Hoài tiềm ẩn một một cái gì thật chua chát, khinh thị cả chính mình. Nhìn bóng mình trong gương và thản nhiên tự nhắc lại những lời mà người khác quở mình: “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt!” (Như Phong), “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không.”  (Nguyên Hồng), “Mồm nói thế  này, bụng lại nghĩ khác.Thằng cơ hội!” (Nguyễn Tuân)…Độc giả có thể nghĩ hồi ký của Tô Hoài phù phiếm, chỉ là những ký chuyện tạp nham tiểu tiết. Làm tình đồng tính luyến ái với Xuân Diệu; gửi hoa phúng Boudarel, mà không nhắc Boudarel đã bị đảng ta liệt vào “nhóm xét lại”…Nhưng có những ký sự tuởng vẩn vơ mà thật ẩn náu thổ lộ tư duy dằn vặt u ám. Vừa đọc xong truyện ngắn của Phùng Cung “Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh”, Tô Hoài gật gù phán đoán bề trên vô cùng độc hại: “Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy con ạ!”, rồi ngay sau đó viết như chuyện trên trời: “Tôi không thể tưởng tượng một Phùng Cung thế nào mà bị bắt – tù không án biệt giam mười một năm!”. Truyện viết ra ngắn gọn nhẩn nhơ trắng trợn, thế mà thật thầm kín u uất như vì phải nhắc đến một chuyện bạo ngược bất công của xã hội!

Trong hồi ký hiển hiện con người thật của Tô Hoài, có một cuộc sống tâm tư quá khứ chưa ai biết. Con người hoàn toàn xa lạ với hình ảnh thông thường lạnh lùng cán bộ quan liêu, đảng viên lãnh đạo tư tưởng cao cấp. Cái chết 1951 của Nam Cao dửng dưng nhắc lại bốn năm lần, nhưng thật trở đi trở về như một niềm ám ảnh, tuy nói nhờ Phùng Cung  theo giúp người vợ của Nam Cao đi  tìm mộ (1956?), Tô Hoài thừa biết rằng xác của Nam Cao đã vứt vào hố chung, 1998 dưới áp lực của Unesco (theo lời của người con, bà Trần Thị Hồng, báo Văn Nghệ số Tết Ất Dậu, Hà Nội 2005) mới được đào lên đưa về cho gia đình. Khi Tô Hoài đưa cho Nguyên Hồng đọc bài mình tự kiểm điểm (báo Nhân Dân 12 tháng 3. 1958), loại văn chương đẽo gọt gỗ mọt quét sơn vàng, tác giả thật mong chờ được nghe Nguyên Hồng thét lên : “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không””. Không những thế, Nguyên Hồng còn mếu máo quỳ xuống trước bạn mình, trước “Hội Trưởng Hội Nhà Văn”, chỉ xin một điều đừng bắt ông phải viết một bài tự kiểm điểm như vậy, cho ông đi Nhã Nam, Bắc Hà miền sâu miền xa làm người ruộng, người rừng. Cả một màn kịch siêu thực. Đặc biệt nữa trong hồi ký là sự giao du hàng tháng hàng năm với Nguyễn Tuân, hai người bạn tâm đầu biết thế nào là cơ hội, né tránh những đòn ngầm tranh giành miếng ăn miếng lộc, cùng vẫn còn một chút nhân tính, tự trọng biết khinh mạn cái xã hội chỉ thấy những người đê hèn và giả dối. Tất cả trình diễn một Tô Hoài bạc nhược yếm thế, với một nhân sinh quan khắc khoải bi quan, không thiết tha chờ đợi gì ở xã hội trên mảnh đất này. Ngay những năm đầu thiên niên kỷ, xã hội đổi mới đi vào nền  kinh tế thị trường tư bản, Tô Hoài vẫn còn nói : “Tôi không chờ đợi gì mới lạ! Ai giầu thì cứ giầu, con người vẫn là con người.”  Vô hình chung, tập hồi ký của Tô Hoài là bản cáo trạng vạch trần cái u tối của xã hội, nằm trong một chế độ không nhân tính, mà chính tác giả đã góp phần xây dựng. Cái chế độ của bọn chính khách to mồm và lớn miệng. Của những cán bộ đảng viên “chân đất” tu dưỡng ở trường Nguyễn Ái Quốc, ngồi rung đùi tay rứt râu mép nghe giảng triết học Marxít, đạo đức bí thư uỷ viên chính trị cho quận hay cho xã ( xem “Chiều Chiều”). Cả một chế độ không thầy không tớ, con người suy thoái, những người tài danh đều già trước tuổi, phế thải suy tàn trong những buổi chiều đen tối. Ngô Tất Tố quẹt nuớc mũi vào gốc cây và than rằng: “Làm người khó lắm, bác ạ!”.  Nguyễn Bính đói khát lang thang như kẻ không hồn, vứt con nhỏ ở góc đường cho người nhặt. Ôi! Tât cả đây dưới ngòi bút của Tô Hoài là cái thời chuyên chế bao cấp, văn nghệ tư tưởng chỉnh huấn một chiều. Dư hại vẫn còn đây; trong hồi ký của Tô Hoài người ta không thấy một tia sáng hy vọng nào cho ngày mai. Không một nhân vật văn nghệ nào của những thế hệ sau, trưởng thành sau cách mạng tháng 8-1945, được Tô Hoài nhắc đến, dù ông đã là hội trưởng hay phó hội trưởng hội nhà văn hay hội văn nghệ từ 1957 đến tận 1996. Tô Hoài chắc đồng ý với nhà văn Kim Lân (sinh năm 1922), văn học Việt Nam đã mất rồi (từ thời Nhân Văn-Giai Phẩm) tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng, nhiệt huyết sống. Ngày nay nó lại trở nên thực dụng, ê chề, oái oăm nữa!

Trong bối cảnh lịch sử Việt Nam, cái nhìn vào thời cuộc của Tô Hoài là cái nhìn qua con người; chính trị quốc gia cốt yếu là vấn đề xã hội nhân sinh. Nên hai sự kiện lịch sử mà Tô Hoài nghĩ tới là phong trào giảm tô cải cách ruộng đất (CCRĐ) và vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm. Qua hai sự kiện chính trị này, theo Tô Hoài thì sự chuyên chế đảng trị, cách mạng xã hội chủ nghĩa mệnh danh  của giai cấp bần cố nông, công nhân lao động thật là chuyện chúng ta mở  cũi cho xổ lồng một quái vật ( la boîte de Pandore). Tất cả xã hội giờ đây là nằm dưới quyền của một bề trên không tên không tuổi, không hình không hài. Cái tiền đề này, người đọc có thể đã cảm nhận thấy qua hồi ký ( “Chiều Chiều”, “Cát Bụi Chân Ai” ). Với tiểu thuyết “Ba Người Khác”,  thì nó chính là nguyên lý trong cái nhìn của Tô Hoài hồi tưởng lại thảm kịch CCRĐ.

Trong phong trào CCRĐ 1953-56, những đảng viên trí thức, văn nghệ sĩ bị tung ra từng đội về các xã thôn quê huy động tố khổ phú nông địa chủ và làm nghĩa vụ cải thổ ( phân chia lại ruộng đất cho bần cố nông). Công tác dưới xã xiết chặt phăm phắp từng buổi từng ngày, cả đội như một đơn vị ra trận. Hai ngày bắt rễ, một ngày xâu chuỗi (  rễ, bần cố nông của làng; chuỗi, đám dân đen của làng có thể đưa ra thị oai và tố khổ bọn phú nông)( trang 115, Cát Bụi Chân Ai ).  Nếu không làm đúng theo chỉ thị bề trên, có thể bị khai trừ (trong nghĩa đen và nghĩa bóng) vì tội trốn đấu tranh. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm , một trong tứ trụ hoạ sĩ tài danh (cùng Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên), đội viên giảm tô hoảng quá phát dại, suốt ngày vẩn vơ ngoài đồng bắt cào cào chấu chấu ăn. Điên thật hay sợ phải ngồi chuồng trâu kiểm thảo đã sáng tác ra trò “Vân dại” ấy? (Tô Hoài).
        
Tô Hoài đi trong một đợt 1955 (?). Về cải thổ một xã, vừa được tiếp quản (1954) nên hãy còn lề lối an bình thời xưa, nhưng nay vắng vẻ không tiếng cười trẻ con, không trai tráng ngoài đình, tất cả đều im lìm như chờ đợi một cuộc động đất! Cùng đội “xung phong cải cách” có  đồng chí đội trưởng Hoàng Cự (nhân vật thật, biệt phái của quân đội - trang 119, Cát Bụi Chân Ai) và đồng chí Đình. Hai đồng chí này đã cùng đội với Tô Hoài thì không thể là những đứa “vô danh tiểu tốt”;  nhưng trong chế độ mà con người mất bản ngã và đội chỉ có bổn phận là làm phăm phắp theo chỉ thị bề trên, ba đội viên ông, Tô Hoài nhìn lại, chỉ là ba thằng lính người gỗ. “Ba Người Khác”, ba thằng tha hoá như thể không phải là người với tư duy và nhân cách. Tô Hoài còn bi thảm hoá hay hý kịch hoá hơn nữa cho ba đội viên cải thổ đều là ba đứa vô học, lai lịch mờ ám, cặn bã xã hội. Tuy nhiên tên Bối, đóng vai của tác giả, biết nói và biết nghe để kể lại chuyện như một  ký giả . Và cả ba anh đội vẫn còn hai nhân tính, mà không một kỷ cương tư tưởng cách mạng nào có thể một sớm một chiều xoá bỏ, họ tận sống ba cùng ( cùng ăn, cùng ở, cùng làm với rễ) nhưng vụng trộm ăn mảnh và tham lam hủ hoá ( mang đàn bà con gái ra làm tình, có khi ngay ở bụi tre như ở chỗ không người, và các bà cũng chỉ muốn vậy trong một làng đã mất rồi dương khí!)

Nếu Hồi Ký ( “Chiều Chiều” và “Cát Bụi Chân Ai”) là bản cáo trạng lột trần thảm hoạ của những cuộc kiểm điểm chỉnh huấn tư tưởng một chiều ( Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm), “Ba Người Khác” thì lại mãnh liệt hơn nhiều nữa tố cáo cái chính sách phi lý và ngu muội không tưởng dẫn đến những sai lầm và những tội ác. (Trường Chinh tuyên bố 1956 rằng CCRĐ có những sai lầm, những oan trái. Có những người phải trả giá, oan khiên chịu những nhục hình; nhưng đâu phải là toàn thể những nông dân!!).  Đặc biệt là những bản cáo trạng này lại được viết ra bởi Tô Hoài, đảng viên cán bộ cấp cao, vào năm 1992 đã có gần năm mươi năm tuổi đảng.  “Ba Người Khác” thật là một tài liệu vô giá đưa ra một cái nhìn từ phía bên trong, từ chính một đảng viên, con ngưòi và xã hội Việt Nam có thể biến dạng và suy thoái sao dưới chế độ ý thức hệ một chiều, trật tự sắt đá luật lệ tư tưởng mờ ám.
        
Có nhiều phê bình gia nghĩ “Ba Người Khác” là tác phẩm quan trọng nhất của Tô Hoài. Là một tiểu thuyết, dưới góc độ nhìn văn chương nghệ thuật, có tất cả những yếu tố để là một tác phẩm lớn, lớn trong cái nghĩa văn học về chiều dầy của cuộc đời, một tác phẩm có sức mạnh biểu trưng, tả đến tận cùng xã hội con người, xã hội Việt Nam, dưới ách của bề trên, “Những Người Anh Cả!”. Nhưng Tô Hoài là một ký giả quá tài hoa. Ông say mê kể chuyện, mà người đọc thật bị lôi kéo. Chính vì vậy mà tiểu thuyết “ Ba Người Khác” lại loãng đi vì có quá nhiều ký sự. Những chuyện không đâu! Chuyện một bà già ốm đau, liệt giường bỗng có khả năng tự tử , đập đầu vào cối đá. Chuyện hai cô gái đánh ghen một người thứ ba (vì tình ư? vì đòi sống bên Hoàng Cự?); nếu để vào khung cảnh tranh giành chia quả thực (gia tài của phú nông), thì chắc chắn mẩu chuyện này có một giá trị rõ ràng điển hình không nhỏ. Ngòi bút của Tô Hoài hãy còn do dự để vẽ lên một bức tranh cô đọng thật khuấy động lòng người. Không có đoạn văn sắc bén để tả ra cái làng mà người dân bỗng ra vào lén lút, hoảng sợ.  Đoạn văn tả cuộc tố khổ và hành hình phú nông thì nhẹ nhàng như không. Đọan kết của truyện có thể nói đã làm phai nhạt những lời tố cáo. Để cho người đọc thấy tận cùng sự phi lý và sự nhũng loạn bề trên, tác giả đáng lẽ phải để Bối – nhân vật biểu tượng nhà văn – mãn công tác, trở về thăng hoa tiến chức như chuyện thật ngoài đời. Hãy cho Hoàng Cự bị ghen ghét đưa ra làm thí sinh vật chịu tội trách nhiệm cho tất cả những oan trái của CCRĐ; hãy để Đình bị vu là Việt Nam Quốc Dân Đảng cài vào, bị tra tấn rồi hành hình ngay trong cuộc sưả sai với thâm ý rõ rệt là để che lấp cái ngu muội không tưởng của phong trào.


Tôi tin rằng “Hồi Ký” và truyện “Ba Người Khác” của Tô Hoài sẽ còn được nhiều bình luận và diễn giãi chi tiết hơn nữa. Tác phẩm của Tô Hoài có một giá trị giáo dục hiển nhiên. Khi một nhà văn hạng ba - lớn lên và trưởng thành trong chế độ bao cấp, trong chiến tranh, học tập trong trường chính trị của quân đội, tu dưỡng chỉ với sách báo của đảng - phẫn nộ thoá mạ rằng văn nghệ sĩ tiền bối chỉ là những kẻ lỗi thời, Nhân Văn-Giai Phẩm là thảm trạng của sự tranh giành miếng ăn miếng lộc! Khi một nhà văn hạng hai, xuýt xoát một hoàn cảnh, ( chắc nghĩ đến câu : thương cha thuơng một, thương ông (Staline) thương mười) chán chường tuyên bố rằng những nhà thơ Việt Nam  đều là gian dối, rồi về làm vè nửa quê nửa tỉnh! Những nhà văn này, cũng như tất cả những thế hệ về sau, nên biết tiếp nhận cái diễm phúc là bây giờ chúng ta được đọc Tô Hoài. Cảm nhận ra cái bi hài kịch mà xã hội Việt nam đã trải qua, tiêu hao bao nhiêu nguyên khí sáng tạo của con người, mà hậu quả là một màn đen như hãy còn bao phủ trên đời sống văn học của đất nước. Nhưng nếu chính Tô Hoài thì bi quan, không chờ đợi gì ở ngày mai, tôi thì tin rằng tác phẩm của ông thật lại mang đến cho chúng ta một niềm hy vọng rằng rồi đây cái màn đen sẽ được xé tan. Chúng ta biết học hỏi và tìm hiểu những sự kiện lịch sử với mặt trắng và mặt đen, thẳng thắn cảm nhận những biến thiên của xã hội trong thời đại rất dài vừa qua,  lớn lao một phần vì nước mắt và đau khổ.

Tháng 3 năm 2007
 CAO TÔN

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Nội Tâm độc thoại



                                   Lệ Hà (1933-2012)            Sơn dầu trên bố (trích)


NỘI  TÂM ĐỘC THOẠI


Trong hành trang của Giáng trong chuyến đi này, đến Sapa Cõi Tịnh, Giáng mang theo quyển truyện  “Virgile, nhà thơ trước giờ lâm chung” ( “La mort de Virgile”, traduction française, de Hermann Broch). Hermann Broch (1886-1951), người Áo viết quyển truyện này vào những năm 1938-1945 trong tiếng Đức, cầu kỳ khó hiểu nên ít người nói tới, nhưng với đề tài lôi cuốn. Quyển truyện hơn 500  trang cốt là viết ra những cảm nghĩ “nội tâm độc thoại của Virgile trong 18 giờ nằm trên giường bệnh trước khi lâm chung”. Quyển truyện chia ra làm bốn phần:

1) Hồi hương (L'arrivée).
Virgile, đại thi hào La Mã ( latin, romain), lâm bệnh trong khi tuần du Trung Đông, miền của Đế Quốc La Mã, dưới thời hưng thịnh hoàng đế Auguste, César của thành Rome. Có cậu bé Hy lạp tên Lysanias theo hầu đưa về Brindisi, tỉnh nhà ở Ý (Italia). Đêm nằm bệnh ở nhà trọ, nhìn Lysanias nhớ lại tuổi thơ, tình cũ, cuộc đời rong ruổi đi tìm thi ca.
2) Lạc thời (La descente).
Đi tìm thi ca, đi tìm “Mỹ Tính” ( Cái  đẹp,”mỹ hiện”) trong thế gian ô trọc này! Virgile nghĩ lại tất cả sự nghiệp sáng tác thi ca của mình. Đã làm được gì? Eneide, hùng sử ca Rome, kinh thành lập nên đế quốc vương La mã, có nói ra lên được đâu cái bất cẩn  nằm trong Đế quốc, chiều hoàng đế Auguste, lập nên với khổ đau của người nô lệ, lập nên với sức mạnh bạo quyền, một nền văn hóa tiền phong, sa đọa dần trong hưởng thụ xa hoa... Virgile nghĩ đốt cháy hết sự nghiệp văn thơ của mình, đặc biệt Eneide, như một sự thất bại, mù quáng che đậy của nhà thơ.
3) Chung cục (L'attente).
Eneide nữa! Một không tưởng đòi đạt tới sự thật, tường tận nhân sinh tính, chỉ có thể là một ảo ảnh.  Đích thân, hoàng đế Auguste đến thăm Virgile bên giường bệnh. Nhưng không như Hoàng đế mà như người bạn Octave thời xưa của Virgile, cầu xin Virgile giữ lại hùng sử ca Eneide, cho vinh quang của thành Rome, cho tên tuổi của Virgile ở lại trong sử sách. Virgile sau cùng vì tình bạn đành phải giao Eneide cho hoàng đế Auguste, dù chính nhà thơ tự nghĩ mình không xứng đáng gì để lưu danh trong sử sách.
4) Cái vòng đồng nhất (l'unité)
Virgile sau cùng tự thấy đã tới rồi cái điểm đồng nhất sống và chết, tình yêu và phụ bạc, hư vô và vũ trụ...Cái vòng tuyệt đối (le cercle de tout) đã khép lại mênh mông nằm trong nhỏ bé, thánh thiện trong đọa đầy thế tục. Tất cả như một điệu nhạc, một lời tình xa xôi ru  người trở về cát bụi.

Một quyển truyện hơn 500 trang như thế. Ngoài cuộc đối thoại giữa hoàng đế Auguste và Virgile, hầu như không có một chuyện gì xảy ra, tất cả là “nội tâm độc thoại” của nhà thơ. Một bản trường thi ca độc thoại! Một bài thơ phát động tự tiềm thức, bất tất, không chủ định. Những lời tự thì thầm của một người nằm trên giường bệnh, giữa sống và chết, khi tỉnh khi mê, hồi ức và nuối tiếc.
Tất nhiên, đọc giả khó để tâm đọc hết từng trang.  Chúng ta nên đọc như sự thật là vậy đấy, một bài thơ bất tận, lâu lâu hãy chọn một hai trang và thông diễn giải tâm hồn của nhà thơ Virgile trong cái vĩnh hằng thế tục phận làm người. Giáng đã tự chọn dịch ra việt ngữ một hai trang thơ ở từng mỗi đoạn sách trên, như là một cách điển hình tiếp cận tài nghệ của Hemann Broch trong sự tạo dựng “nội tâm độc thoại” của một tâm hồn, những cảm nghĩ tự tận cùng trái tim nhưng lý tính hồn nhiên dẫn dắt phản ảnh thế giới hiện sinh bản thể.

Hồi hương (l'arrivée)

Mộng! Và hãy mộng
ta còn làm thơ thì ta không trở về và còn sống trong vương quốc này của ngày đêm, ta còn có quyền mơ trong hy vọng, hội tụ trong một nỗi nhớ nhung và hy vọng tình yêu, như thế bạn nhỏ của ta ơi! hãy ở lại với ta trong nhớ nhung và hy vọng.
Tên con (Lysanias) là gì, ta không muốn biết vì chỉ là cái bóng của con thôi, và ta cũng không muốn gọi con để ra đi hay để trở về, dù có lẽ con không có tên hay con cũng không thể gọi, dù sao đi nữa hãy ở lại với ta cho tình yêu ở lại mang hạnh phúc tràn đầy! Hãy ở lại với ta trong trong bóng tối này! Hãy ở bên ta bến sông dài mà ta chiêm ngưỡng, xa ngọn nguồn,  không sợ chập chùng lớp sóng, không chìm đắm trong sự cô đơn và ánh sáng độc tôn của thánh thần!
Ôi! hãy ở bên ta, che chở và cùng ta cứu rỗi, ta muốn ở mãi bên người như bên tình yêu toàn màu ánh sáng.


Thi nhân ngồi đây, thằng bé tựa lưng vào đùi, mờ ảo trong bóng tối, không nhìn rõ mặt nhưng mớ tóc nâu lấp lánh dưới ánh nến. Người nhớ lại đêm hãi hùng, của hạnh phúc và mất hạnh phúc, đêm từ giã Plotia. Bao nhiêu năm ngày xưa nhỉ? Ta, người tình luôn luôn say mê, nhưng cũng là kẻ chìm đắm trong sáng tác – cái mâu thuẫn mà ta phải ôm mang. Cái đêm, ta đến bên nàng như một kẻ đắm đuối, để đọc những câu thơ cho nàng nghe, người đẹp u huyền, người đẹp nằm trong giấc mơ của mùa đông, của những ngày giá lạnh ước mong và chờ đợi. Nàng thu gọn dưới chân ta, vai nàng ghì bên đầu gối và ta đã đọc bài mục ca....mà ta đã viết lên trong nỗi nhớ nhung mênh mông vì nàng.....vì nàng ta đã viết nhưng cũng với sự nguyện cầu thoát ly. Ta đã đọc những câu thơ tràn đầy khắc khoải mang mang hy vọng nhưng cũng là những lời cáo biệt.



Lạc thời (La descente)

Màn đêm quấn tròn thi nhân, nhịp nhàng mỹ hiện như giai điệu, lung linh bóng tối vũ trụ đêm cùng trải dàì giữa những vì sao, vượt qua tất cả thời khắc nhưng vẫn tồn tại trong thời gian, không ra ngoài trái đất, từ giới tuyến này tới giới tuyến kia, xa xôi hay gần gũi, nội tại hay ngoại tại, hiện thực tại mỗi điểm
màn đêm mênh mông trên thi nhân và trong cả tâm hồn, như một con sóng tràn đầy bắt nguồn từ quân bằng trái đất, mỹ hiện tượng trưng những biểu tượng hình, lưu đầy đến xứ lạ hay chính tại bản ngã, một cảm thức bao nhiêu lần quen biết nhưng giờ đây dưới ánh sáng mới, để thi nhân thấy lại chính mình, rõ từng nét trên chiếc bóng, xa vời nhưng sáng tạo thể hiện bản ngã trong vũ trụ, vũ trụ trong bản ngã, tỏa sáng đêm cùng, tỏa sáng thế giới, mỹ hiện lan tràn bất tận, qua tất cả những thời đại, thời quán vĩnh hằng đánh dấu cả thời gian mênh mông, biểu tượng hình cho thế giới quan nằm trong thời gian và không gian, ôm mang nỗi buồn phù du, mỹ hiện nhân sinh vũ trụ.
chính vậy trong nỗi buồn tang tóc
chính vậy con người cảm thức mỹ hiện
hiện thành trong bản ngã
biểu tượng hình và quân bằng vũ trụ
mênh mông và huyền diệu giữa cực điểm
bản ngã cảm thức mỹ hiện thế giới hiện thành với mỹ hiện
những cực điểm với từng không gian và giới hạn bản thể
nhưng quân bằng trong một vũ trụ
trong một cõi nhân sinh
trong một cõi đi về
............
Mỹ hiện tại tận cùng thi nhân tính
giới tuyến ngoại tại và nội tại
tại cõi trời xa thẳm
tại một điểm giữa vô biên và hữu hạn
tại vùng đất hoang sâu của trái đất này
trong thời gian của sự sống
trong sinh thời bản thể
quãng thời gian tồn lưu bản sinh trong không gian
mà không tan biến
mỹ hiện ở ngoại tại thời gian
không loại trừ thời gian
mà biểu tượng hình loại trừ cái chết
nhưng không loại trừ tất cả
dù trong cõi nhân sinh eo hẹp
hay chính là trong cõi phi nhân tính
mỹ hiện như là một biến cố con người
một mỹ thức nguyên thủy
một thế gới hữu hạn trong vô cùng
một vô cùng huyền ảo trong cõi nhân sinh
một trò chơi của con người
muốn đoạt vĩnh hằng trong cõi đi về
một trò chơi biểu tượng hình  bên bờ xa trái đất
mỹ hiện một trò chơi bản thể
mà con người chơi biểu tượng hình
như một cách duy nhất
tượng trưng thoát ly
sự cô đơn khắc khoải phận làm người

Chung cục (l'attente)

Dẫu dù ta có biết lột trần nhân loại để đi tới cõi thâm sâu, trơ trụi cuối cùng, gỡ bỏ thịt da trên bộ xương, lọc xương hết tủy, phá vỡ đầu óc tư duy để chỉ còn trơ cái thằng tôi đơn độc, xám hối trước thánh thần, cái thằng tôi u ám; dẫu dù lý tính ta sáng suốt để có thể thi hành việc đó và ta sẽ đi từng bước, ghi chép và trình diễn, ta cũng không thể đi tới đâu, ta chỉ biết lè tè trong thế tục, bám chặt trái đất này, chỉ biết thế nào là sống và không bao giờ  biết tới lẽ chết; moi móc từng mảnh đêm cùng hỗn mang, đan ghép dây truyền của sự thật, cái dây truyền bất tận chư chính là sự thật, chính là cuộc đời ngang trái, mâu thuẫn và phi lý cầm tù mà vẫn ra đi tìm sự thật, cho đến khi như cuộc đời tỉnh ngộ nhận ra sự chết, và chìm trong tang tóc trong ánh sáng vô cùng của sự trở về, với lý nghĩa sâu xa đó của kiếp con người, tới điểm chung cục hội tụ sống và chết, và sự thật chỉ là sự thật của trần gian, kết tụ ở một điểm duy nhất đó, giữa sống và chết, và tất cả là hoài niệm trong vĩnh hằng hồi ức.

Cái vòng đồng nhất

Vang vang tiếng thì thầm? Plotius, người bạn đồng hành của ta, kiêu hùng và thân thiết? Ô Plotius, hãy tiếp tục, hãy tiếp tục thì thầm trầm lặng, như từ cõi thâm sâu bất tận bên trong hay bên ngoài, như bây giờ không còn phải lao công, như bây giờ mọi sự đã hoàn tất, không còn gì phải thêm bớt, không còn gì cần thiết nữa,  hãy tiếp tục không bao giờ ngừng; tiếng thì thầm thật đã vang vọng từ lâu rồi, như luôn luôn và mãi mãi,  tới trong tiếng rì rào không ngừng của sóng nước, ngọn nước cuốn lăn tăn, tiếng thì thầm cũng từng đợt theo nhau, lăn tăn là những vòng tròn tiếp nối trong một miền vô tận; tiếng thì thầm không lắng tai cũng nghe, tiếng thì thầm không được níu giữ, nó lan đi về chốn vô cùng có tiếng reo của suối nước, tiếng nước chảy ngầm, hòa tan trong âm thanh ấy trở nên sinh lực không màu không sắc đưa ta đến chốn an bình, chính nó là sự an bình, như tiếng sóng đập mạn thuyền tung tăng bọt trắng....... Bờ bến xa dần, tất cả như là một lời cáo biệt, cáo biệt những người thân, những ngôi nhà người ta vẫn sống ở miền xa đó, cáo biệt thế gian đang biến dạng trong cái vĩnh hằng bản thể, cáo biệt sự thay hình đổi dạng của những vật thân quen, cáo biệt những đám mây, cáo biệt  cái đền nằm dưới mây mù ảm đạm.

Mạn đàm
Độc thoại” kịch tính trình diễn cho chính mình những cảm nghĩ chợt đến chợt đi bằng lời nói.Trong nghệ thuật văn chương, tiểu thuyết hay kịch bản, độc thoại là một thể cách nghệ thuật tạo dựng nhân vật qua lời nói bản thân, hiện rõ với tiềm thức, với ước ao, tình yêu, dục vọng....
Mà thật, người họa sĩ trước tiên“vẽ trong đầu” rồi đứng trước giá vẽ, khung bố, cây cọ, sơn dầu và màu sắc, cũng là “độc thoại” không bằng lời nói mà bằng cây cọ đưa ra những vệt màu, triển khai trình diễn từng bước cho chính mình cái gì mà nghệ sĩ đã cảm thấy trong nội tâm. Nhạc sĩ sáng tác cũng không làm gì hơn, “độc thoại” với mình không bằng lời nói mà với âm thanh cây đàn. Độc thoại có thể hoàn toàn “nội tâm”, đặc biệt như là nhạc sĩ Beethoven bị điếc rồi mà vẫn sáng tác ra những khúc nhạc vượt thời gian, vô thanh vang lên cho mình, lý tính siêu thoát hồi ức nội tâm.
Từ những cảm thức đột phá trong tâm trí, triển khai “độc thoại” thật là một suy luận trải dài nghệ thuật với lý tính, bản năng nghệ thuật, triết lý và còn khi cả khoa học của nhân vật. Nhưng đối người bệnh, chỉ vài giờ trước khi lâm chung, những cảm thức chỉ có thể chợt đến rồi chợt đi, và ngay cả sự triển khai “độc thoại” chỉ có thể là bất tất, mông lung vụng về mê sảng. Nhưng tuy nhiên, với đại thi hào Virgile, dù thế nào đi nữa cái bản năng sáng tác thi ca, cái chiều sâu lý luận văn học phải lưu tồn trong tiềm thức. Hermann Broch nên đã táo bạo thử thách “ nội tâm độc thoại” (le monologue intérieur), để diễn tả cho cùng tư duy của một nhân vật như Virgile trong những giờ lâm chung. Gần 500 trang, “nội tâm độc thoại” tuy bất tất hay mê sảng (người yêu nhớ lại  hiện ra như một linh hồn vẫy tay dẫn dắt nhà thơ về chốn bên kia!) vẫn đột phá để có thi ca, sâu xa suy luận về “cái đẹp”, cái “lẽ nhân sinh, lịch sử, hay xã hội”. Hermann Broch tuy nhiên còn theo “tự nhiên chủ nghia” (le naturalisme), “nội tâm độc thoại” của nhà thơ Virgile là độc thoại của người bệnh, trong cái nghĩa là rất nhiều khi không có thể suy cho ra một chủ đề tổng quát, một lý luận cảm nghĩ thông thường cơ bản nào.
Hermann Broch thật quá táo bạo thử thách viết ra như thế cả một thiên tiểu thuyết hầu như không chuyện, chỉ với “nội tâm đọc thoại” của nhà thơ nửa tỉnh nửa hôn mê. Nhưng tài nghệ chuyên nghiệp văn chương làm sao lôi cuốn được độc giả? Sự thử thách táo bạo đó, theo nhà phê bình Maurice Blanchot, có tính cách tự truyện, thành công hay không cũng là một thử nghiệm cho văn nghệ sĩ hôm nay và ngày mai suy tư về “nội tâm độc thoại”, triển khai theo Hermann Broch vừa “phân tâm học” vừa “tự nhiên chủ nghĩa”, có giá trị sao về nghệ thuật trong văn thơ, tiểu thuyết hay kịch bản.

Tháng 5 năm 2015
Ngô Văn Tao