my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002)
Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)
Quế Anh (oil pastel on paper) Luân hồi ảo vọng – Vanity circle
THE VANITY CIRCLE
Live and forget the essential Love with all desires in a fleeting world Her body was to be in my embrace The memory forever in my heart And the distresses and the pains For not to protect her from life sorrows
Love with all desires in a fleeting world Have to part and keep on hoping for permanence Her figure was so warm and tender Strong the taste of bitters-spirit Winter evenings I spent in gracious silence Alone by the fire looking up to a star
Have to part and keep on hoping for permanence Suffer with the eyes full of sunlight There was a very old tree In the land of my childhood And I knew the despair in departing on a boat To be wrecked in the high sea
Suffer with the eyes full of sunlight Live and forget the essential A slender thread binding beings to shadows I had the ethereal sky Looking for a way up to the mountains To leave the valley with passing time
The cycle of pains and vanities 2.2010
Luân hồi ảo vọng
Sống một đời mà không một lần tỉnh giấc Yêu và không biết tất cả là phù du Ôi! chiếc thân hiền hòa em dâng hiến Anh tiếc thương cùng hoài niệm Xé lòng đã không giang đôi tay Che chở em trong sóng gió đời người
Yêu và không biết tất cả là phù du Ra đi vẫn mơ tưởng vĩnh hằng Em dịu dàng và thân thuộc Đắm say như ly rượu nồng Anh sống mãi những chiều lặng lẽ Cô đơn bên đống lửa vọng nhìn một vì sao
Ra đi vẫn mơ tưởng vĩnh hằng Đau khổ với đôi mắt đầy ánh sáng Có một cây đa cổ thụ Trong vườn hoa tuổi học Anh biết thế nào là tuyệt vọng Trên con thuyền đắm chìm giữa biển khơi
Đau khổ với đôi mắt đầy ánh sáng Sống một đời mà không một lần tỉnh giấc Như sợi dây đời quá mong manh Nối liền chiếc bóng với mặt người Anh dấn vào không trung tìm lên ngọn núi Để lại trong thung lũng của trần gian
Cõi luân hồi ảo tưởng với hoang mê 2009
Le poème original Le cycle de vanités (extrait du long poème: La montagne Magique – Recueil: Nuages-Mây. Ngô văn Tao Montréal -1988)
Vivre sa vie et oublier l’essentiel Aimer sans comprendre l’éphémère De son corps qui m’était offert Le frêle souvenir me hantait Et je ne savais que faire de mes deux bras Pour des souffrances la protéger à jamais
Aimer sans comprendre l’éphémère Partir et garder le goût de l’immortel De son image ciselée fraternelle A la chaleur évoquée de l’alcool amer Il m’était donné des soirs de silence Avec un feu lancinant et un rêve de l’étoile
Partir et garder le goût de l’immortel Souffrir avec des yeux pleins de lumière Il devrait subsister un arbre millénaire Qui était planté dans le pays de ma jeunesse Et je savais de quel désespoir prendre un matin la barque Pour sombrer de mirage et de détresse au milieu de l’océan
Souffrir avec des yeux pleins de lumière Vivre sa vie et oublier l’essentiel Comme le fil ténu reliant les ombres et les visages J’avais pour moi tout l’éther sidéral Pour trouver le chemin de la montagne Laissant dans la vallée mon âge
Quế Anh (oil pastel on paper) Lạnh lùng – February
February
In February the days are longer the winter almost comes to an end I already dream of the summer so that I have not to wake up in silence and find out your name amongst the poet’s verses
In February shall I take out my wings? Shall I have all the warm winds to sail you in the midst of the rain into the sun which will blur our eyes?
In February would there be anything to keep me from singing to the spring taking to the air go all the way down to the South fair and see you between the blooming trees?
I do not know the end of this cold canvas the only thing I do know in February it was so long that I lost my compass thinking of you in the blowing snow 1982
Tháng Hai
Tháng hai dằng dặc đêm dài Trời đông chẳng hẹn tới ngày sang xuân Nơi nao hoa nở trên ngàn Mùa hè mộng mị muôn vàn nhớ nhung Cảo thơm lần giở ngại ngùng Thơ tìm chữ gọi nghìn trùng tên em Phương nao gió dậy êm đềm Dập dềnh gối sóng cánh buồm chân mây Mưa thưa nắng cuối trời đầy Mắt mờ bụi nước tỉnh say tình người
Lạc loài trong tiết thánh hai Cây trơ giá đọng vườn mai mịt mờ Yêu nhau nào biết nào ngờ Tìm nhau chỉ giữa những tờ phụ nhau
Tháng hai gió lạnh ngàn thâu Trầm phù tuyết đổ nhịp cầu sang ngang 1995 Bùi Giáng
Quế Anh (oil pastel on paper) Bình minh – The dawn of Peace
Third War Canto
The arms were silenced we are in love time to be all equal and free proud of the freedom in the heart and in the mind Away from the myth of glory and power we are not in need of riches to be poor is to be blessed getting together on the earth caring and loving with true feeling in our heart The war has ended the fights are over looking back with melancholy we have pity for the conquerors and cries for the vanquished Oh! Prince of the War wreathed with white hair let be hanged on a sunbeam thy holy sword and that for ever 02.2010
Le poème original La réalisation des armes(trosième chant)
Quand les bruits des armes auraient cessé commencera le règne de l’amour les hommes deviendront tous égaux nous serons libres et sans honte de cette liberté profonde du coeur et de l’esprit Quand la richesse ne serait plus une nécessité la pauvreté, un don qui nous vient de la terre qui nous rapproche et qui nous relie Quand l’hypocrisie ne serait plus jamais de mise le pouvoir et la gloire, quel souvenir renié Quand régnerait la paix, cesseraient les combats nous n’aurons plus que cette pensée mélancolique de plaindre les vainqueurs et de pleurer les vaincus Oh! Prince avec ta couronne de cheveux blancs viendras-tu accrocher à un rayon de lumière et ce pour toujours ton épée inutile? (Extrait dy recueil:”Papyrus”, Ngo Van Tao 2000)
Thành tựu của binh đao(bài ca thứ ba)
Khi binh đao không còn vang nữa sẽ tới thời của tình yêu ai cũng như ai ta sẽ tự do và không hổ thẹn với tự do của trái tim và của tâm hồn Khi chúng ta không cần giầu sang sự nghèo nàn là ân huệ của trời để chúng ta gần nhau để chúng ta thương nghau Khi không ai cần mặt nạ không ai cần hào quang và uy quyền khi thanh bình trở lại, chiến tranh đã hết chúng ta sẽ trầm tư nghĩ lại thương cho kẻ thắng trận khóc cho người bại trận Ôi! Ông hoàng ơi, mái đầu ông tóc trắng hãy treo lên tia nắng chiếc gươm thần vô dụng 2000
Quế Anh(oil pastel on paper)Xuân tình – Love in spring
Hán tự hài cú
野我浮.. ..Phù vân sơn đỉnh thượng
草們雲Ngã môn khứ nhật hoa viên trung
誰去山....Dã thảo thùy nhân tại
人日頂
在花上
....園
....中
Up in the mountain
Flowers in the wilderness
Lost trail in the dream
Đôi ta mái nhà ấm
Mây phủ vườn hoang hoa lá rụng
Ngàn năm sao hững hờ
HOW TO READ A HAIKU:
The japanese Haiku is a poem of three sentences: successively of five, seven and five syllables. In japanese and in english, that means just a few words but with silence pregnant of meanings between them.
The important idea is to let the readers have the feeling of : Time, Space and Being. In classical japanese haiku, Time usuallymeans one of the four seasons. Space, the natural world. Being, human being but it could be a frog, a cicada,a dragonfly…and even a falling leaf or a blooming flower…
The silence between the words are to be filled by the reader: as in the english haiku above, we might figure out in our mind these lines between the words,
Up in the mountain
(There are just) flowers in the wilderness
(No way to find back) the trail(leading to the old house of our happiness).
In my kanzi haiku, the sentences are afforded to be: “seven,five and five syllables” or “five, five and seven syllables”. By the richness of kanzi, monosyllabic words, the silence, if any between the sentences, usually should imply some inherent meaning
Quế Anh (oil pastel on paper) Con chim thần-The bird with its pearl
I know the place It is true. Everything we do Connects the space Between death and me And you Harold Pinter
A Pedra Reflexiva (canção Brasileira)
Dá-me as cores vermelho tinto e preto un lado de vida em geleira para que eu saiba chorar de solidão
Dá-me os caminhos as flores e uma corrente de agua um canto de mundo sem fantasia para que eu entenda o que é o mal de viver
Dá-me um grito a tristeza e uma ausencia as janelas que abrem de noite eu direi que amar traz dor de cotovêlo
À mão que muda as cores a pedra reflexiva sabe falar Dá-me as roupas coloridas de sambão e eu cantarei o tempo que não quer parar 1978 Ngô Văn Tao (extrait du recueil de poésie: “Nuages-Mây” Ngô Văn Tao-Montréal.1988)
La pierre réflexive (Chanson Brésilienne)
Donnez-moi les couleurs rouge jaune et noir la vie tout en glacière je pleurerai de solitude
Donnez-moi un chemin bordé de fleurs le long du ruisseau dans un coin de monde sans fantaisie je vous parlerai du mal de vivre
Donnez-moi un cri la tristesse et l’absence les fenêtres ouvertes dans la nuit avec l’ivresse de la peine d’amour
À une main qui change les couleurs La pierre réflexive parlera Donnez-moi les robes colorées de Samba je chanterai le temps qui ne s’arrête 2010-nvt
xin cho tôi xin cả cuộc đời một hôm nào trẻ hát trong nôi xin cho tôi xin chỉ một ngày Trịnh Công Sơn
Viên đá thần
Xin cho tôi màu sắc màu vàng màu đỏ màu đen một góc đời vắng lạnh để tôi khóc trong cô đơn
Xin cho tôi chỉ một con đường hoa nở bên bờ suối trời không gió không mây tôi biết thế nào là đau khổ
Hãy hát lên cùng tôi nỗi buồn và mất mát cánh cửa mở im lìm thâu đêm người đi để lại ly rượu đắng
Bàn tay mang mang màu sắc viên đá thần như biết nói Xin cho tôi tà áo rộn ràng tôi nói thời gian không đứng lại 2010-nvt
“Das Unbehagen in der Kultur” , le titre d’un livre (1930) de S.Freud, il est à traduire par “ Malaise dans la civilisation” ou par “Malaise dans la culture”?
La discussion suivante de trois différents traducteurs français est bien instructive. (extrait du journal “Le monde”, le monde de livres, Paris vendredi 8.1.2010)
Bernard Lortholary: La langue allemande dispose des deux termes, “Kultur” et “Zivilization”. Quand on traduit, il faut toujours se demander: ce texte, de quoi il parle, à quelle date et à qui s’adresse-t-il maintenant? Freud parle du malaise engendré par la civilisation. Mais il écrit à un moment où les idéologues accusent la “Zivilisation” d’être française, voire juive, par opposition à la “Kultur” allemande…Nous n’en sommes plus là…Donc, j’ai choisi“Malaise dans la civilisation”.
Dorian Astor:Il y a un jeu de miroirs. En allemand, le mot “Kultur” est mélioratif, il signifie supérieur. En français, c’est plutôt “civilisation”; on ne parle pas de civilisation papoue, mais de culture papoue. Dans “ L’Avenir d’une illusion”, Freud dit : “Je dédaigne de faire la différence entre Kultur et Zivilisation”. A partir de là, il faut savoir comment les choses s’articulent conceptuellement. Freud est l’héritier d’une philosophie où l’on oppose nature et culture. Pour lui, tout ce qui éloigne l’homme de la nature est un fait culturel. Utiliser le terme “civilisation” pour traduire, ce serait en revenir au vieux sentiment de supérorité français façon 1930. J’ai opté pour “Malaise dans la culture”.
François Robert:La distinction Kultur/Zivilisation appartient à l’univers de pensée allemand. Pourtant, il est possible d’importer le concept de Kultur dans la traduction, où ce mot va prendre une nouvelle acception parfaitement cohérente avec celle qu’il a aujourd’hui en français. “La culture est édifiée sur le renoncement pulsionnel”, répète Freud. C’est l’opposition pertinente chez lui. Si on traduit par “civilisation’, on perd donc le sens nouveau que Freud a donné au mot “Kultur”, la grande nouveauté freudienne, c’est assimiler la nature à la pulsion, et la culture à son refoulement.
La discussion précédente m’est instructive. Elle rappelle l’idée que tout écrivain devrait parfois refléchir sur le sens d’un de ses mots. Tout en souposant, il donne sans le savoir à son travail une certaine dimension que les lecteurs pourraient instinctivement ressentir.
“Văn hóa” hay “Văn học”
“Das Unberhagen in der Kultur”, nhan đề một quyển sách tâm lý học tiếng Đức(1930) của S.Freud; nên dịch là “Malaise dans la civilisation” hay là “Malaise dans la culture”. Trên là những ý kiến khác nhau của ba dịch giả người Pháp, mà tôi trích từ nhật báo “Le Monde”, Le Monde des livres, Paris thứ sáu 8.1.2010.
Theo thủ tục hầu như cố định, tôi dịch những ý kiến trên, cơ bản: “civilisation” thì là “văn hóa” mà “culture” là “văn học”. Vậy vấn đề “Das Unberhagen in der Kultur” nên dịch ra (tiếng pháp) là “Tình trạng bất an trong văn hóa” hay “Tình trạng bất an trong văn học”.
Trên vấn đề đó, những ý kiến cuả ba dịch giảcó một giá trị lý luận phổ thông không nhỏ.
Bernard Lortholary:Trong ngôn ngữ Đức, có hai tự: Kultur và Zivilisation. Khi ta dịch, phải tự hỏi, văn bản muốn nói gì, ở thời nào, và bây giờ còn nói cho ai?. Freud nói về trạng thái bất an đến từ “Văn Hóa”. Đó là thời tư tưởng gia Đức thường nghĩ “Văn hóa” là Pháp, hay nữa là Do Thái, ngược lại “Văn Học” cốt yếu là Đức. …Bây giờ, chúng ta không còn nhận thấy luận điệu này. …Tôi chọn dịch là “ Trạng thái bất an trong Văn hóa”.
Dorian Astor: Đây là chuyện những tấm gương phản chiếu nhau. Trong ngôn ngữ Đức, “Văn Học” là kiêu sang, ở tầng cấp trên. Ngược lại với ngôn ngữ Pháp, chúng ta nói “Văn Học Papou” chứ không nói “Văn Hóa Papou” (*). Trong luận bản “Tương lai của một huyễn tượng” ( L’avenir d’une illusion), Freud có nói: Tôi hoàn toàn không bận tâm với chuyện phân biệt “Văn hóa” hay “Văn học” . Cốt yếu là tư tưởng được giải trình tùy theo các khái niệm. Freud thừa kế triết học có sự đối lập giữa Tự Nhiên và Văn học. Đối với Freud, tất cả những gì làm con người xa lánh tự nhiên đều thuộc về Văn học. Dùng tự “Văn hóa” để dịch nhan đề trên, là trở về với quan niệm kiêu kỳ của người Pháp, vào những năm 1930. Tôi sẽ dịch là “Trạng thái bất an trong Văn học”.
François Robert:Trong thế giới tư duy của người Đức, người ta phân biệt Văn hóa và Văn học. Tuy nhiên, ta có thể dùng tự Văn học(Kultur), với khái niệm của nó trong bản dịch, nó sẽ có một ý niệm mới phù hợp với khái niệm hiện đại của người Pháp. Freud nhắc lại: ”Văn học dựng trên cơ sở khống chế những chuyển hướng bất đồng” . Đó chính là đặc tính của “Văn học” trong tư tưởng của Freud. Vậy nếu chúng ta dịch với tự “Văn hóa”, ta để lạc mất cái ý niệm đặc biệt này của Freud về “Văn học”, nghĩ đến tự nhiên là nghĩ đến những di động hồn nhiên không lường, mà Văn học là sự tự kiềm chế.
(*) Papou là một dân tộc thiểu số (nhiều không tới 2 triệu người), da đen Oceaniens, sống ở quần đảo Nouvelle-Caledonie, miền Bắc châu Úc, cốt yếu là hoang vu thâm lâm nhiệt đới. Dĩ nhiên, họ chỉ có một nền văn hóa thô sơ. Nên có lẽ khi bàn đến văn học hay văn hóa Papou, chúng ta sẽ nói “Văn hóa truyền thống của người Papou”.
Tản mạn
Trở lại vấn đề “Văn hóa” hay “Văn học”, thì chính trong ngôn ngữ Hán Việt cũng có vấn đề nên thông hiểu sao chữ “Văn” trong bao nhiêu từ kép khác nhau.
Trước hết, hãy đọc câu của Khổng Tử trong “Luận Ngữ” , mà các trường phổ thông đưa lên làm biểu ngữ: “Tiên Học Lễ Hậu Học Văn”. Chữ Văn ở đây dĩ nhiên là Văn trong “Văn Học”, mà “học văn” là học hỏi đọc sách thánh hiền, tìm hiểu quy luật thiên nhiên, xã hội, học suy luận và trình bày mạch lạch hay với nghệ thuật ý tưởng của mình (tức là ý chính của đơn chữ “văn”, như khi nôm na ta nói “học viết Văn”). Chữ Văn ở đây – không như Kultur trong ý của Freud – không có ý tự kiềm chế xa lánh tự nhiên, vì cách xử thế này là đã nằm trong chữ “Lễ”.
Và chữ “Lễ” có ý nằm trong “Văn hóa”. Khi chúng ta nói tới “Văn hóa”, thì thường là ta nghĩ đến một sự trạng tổng kết và cố định, bao gồm phong tục, lễ bái, nề nếp xã hội gia đình, cùng các công trình xây dựng và các công cụ của đời thường…Tỉ như “Văn hóa Pharaon Ai Cập”, “Văn hóa Sa Huỳnh tại Quảng Ngãi”, “Văn hóa truyền thống Papou”…Văn Hóa Ai Cập, Văn Hóa Sa Huỳnh là những nền văn hóa của mấy ngàn năm trước nay đã chết. Nhưng là những nền văn hóa chứng tỏ sự tiến bộ con người, trong tổ chức xã hội, trong cách sống ( đặc biệt Sa Huỳnh chứng tỏ bằng những hiện vật như đồ gốm, đố đá, đồ đồng.. trong sinh hoạt của người tiền sử có niên đại trên 3.000 năm trước– theo báo Tuổi Trẻ, thành phố Hồ Chí Minhngày 21-1-2910). Tuy nhiên nói về dân tộc Papou, ta sẽ nói “Văn hóa truyền thống Papou” , vì người Papou hiện vẫn sinh tồn, họ có một nền Văn hóa cố định từ xưa ( truyền thống), nhưng chăc chắn họ cũng đang chịu ảnh hưởng ngoại lai, đời sống “văn hóa” nay phải bị xáo trộn thay đổi vì sự gia nhập văn minh thế giới.
Nhưng nói tới Hy Lạp của thời cổ (500 trước công nguyên) và đế quốc La Mã (Rome vào mấy thế kỷ trước và đầu công nguyên), theo tôi nghĩ, chúng ta nên nói đến “Văn Minh cổ điển Hy Lạp” và “Văn Minh La mã” . Trong văn minh, có ý văn hóa và văn học, hơn nữa vì Hy lạp và La Mã là những nền văn hóa và văn học của quá khứ nhưng hiện vẫn chiếu tỏa trên hành trình văn minh của nhân loại, trong nghệ thuật, trong khoa học và trong tư tưởng.
Tiện đây tôi nhắc lại những trường hợp sử dụng chính đáng từ ngữ trên ngay trong đời thường. Chúng ta có những biển ngữ “Khu phố Văn hóa”, “Ấp Văn hóa” chứ không dùng chữ văn học, vì thật cốt là nói khu phố hay ấp này người dân biết cư sử lễ độ với nhau, tôn trọng đời tư của mọi người, không ồn ào xả rác…Đối với gia đình, bố mẹ, con cái học hành đến nơi đến chốn, có lẽ khi xưa, chúng ta nói là “ gia đình khoa bảng” nhưng nay chúng ta nói đó là “gia đình văn học”. Tuy nhiên đối với một người có chức vụ có bằng cấp, nhưng cư sử lỗ mãng, ăn nói thô tục, không tôn trọng kẻ khác, không kính cẩn với người già.., thì người dân sẽ nói một cách chính đáng: “ Cha này có văn học mà không có văn hóa”.
Sau cùng tôi xin đưa ra một số tỉ dụ dùng chữ “Văn” trong Hán Việt, và trong nôm na đời thường, để bạn đọc tự nhận ra sự đa dạng của chữ “Văn”. Người ta nói “Ông bạn này có tài văn chương, nhưng không phải là văn nghệ sĩ”, “Ông ta nói văn hoa nhưng không có chiều sâu” “Mảnh đá hoa thật đẹp có rất nhiều hoa văn” “ Nước Việt nam có ngàn năm Văn hiến” (Bình Ngô Đại Cáo) “ Trong văn học Việt nam, từ chương thì nhiều, tư tưởng thì ít” ….
Những lời bàn luận trên nhắc tớicảm nhận mà tôi vẫn thường có. Sự cần thiết của nhà văn, nhà thơ nên luôn tĩnh trí tự hỏi với chính mình khi dùng một từ ngữ có tính cách văn học, triết lý hay nghệ thuật, chính ta có khái niệm gì về từ đó. Chỉ thô sơ thôi, âm thầm sâu lắng, nhưng một cách nào ấy vẫn thêm cho văn bản của mình một chiều sâu, mà người đọc cũng sẽ linh cảm thấy….