ngovantao

Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009

Phong Lan - Orchid


Quế Anh (oil pastel on paper) Phong Lan – Orchid perennial


ORCHID

At the end of our life, there’ll be silence
As under the sun our unfulfilled desires
Orchid perennial, our vow of permanence
But of the bygones only the lost memories

In the morning, we are waiting for the sun
Opening lights in the dull cycle of the days
You come and present us with an orchid branch
Golden petals, the autumn dreams

Over the living and over our sorrows
You want to tell us about the waves of time
And our boats adrift in the eddy of its flows

Looking for the port, with no way to get home
And orchid flowers, our very passions
Hanging over the pond of forgotten dreams
26.11.09


ORCHIDÉE

A la fin de la vie, il viendra le silence
Comme sous le soleil resteront nos désirs
La branche d’orchidée, le voeu de permanence
Mais de notre jeunesse il n’est que souvenir

A l’aube attendons-nous le lever du soleil
Continuer le cycle de nos jours monotones
Et tu viens nous offrir des pétales vermeils
La branche d’orchidée, le rêve de l’automne

Au-delà de la vie, au-delà du regret
Tu voudrais nous parler du temps qui ne s’arrête
Le temps, une barque sur le courant des jours

Chercher un port d’attache, un espoir de retour
Et la fleur d’orchidée, le symbole chétif
Du rêve suspendu sur l’étang de l’oubli
22.2.1994



PHONG LAN

Trong cuộc phá vỡ tận cùng
Tử sinh còn một ngại ngùng lặng im
Từ trong vô tận nghìn nghìn
Ngành lan hé nụ cười tình kính dâng
Rằng từ ngẫu nhĩ mà ra
Chết từ sơ ngộ tố nga cuối cùng
Đóa hoa thu muộn lẫy lừng
Ai từng nhắc chốn ai từng nhớ nơi
Ai từng đã đến với ai
Ngành hoa xuân sắc đầu này yêu thương
Ngành lan huệ đóa hải đường
Bên kia thể dựng môi trường tái sinh
Phong lan sực nức một mình
Từng cay đắng lại tự tình hơn xưa
Thời gian dừng sững giữa trưa
Hoang mang tháng chạp thượng thừa ra giêng
Chúng ta – người ngợm ô duyên
Tình cờ tao ngộ thiêng liêng một giờ
Ai từ quốc sắc bơ vơ
Gặp ai như một bất ngờ nhìn nhau
Cậy ai tính mệnh yêu đào
Mỹ nhân như thể hoàng mao đọa đầy
Cậy ai chút cỏn con này
Niềm đau tơ tóc thánh ngày thâm sâu
Bấy chầy chưa tỏ âm hao
Ai về trong một đêm nào muội mê
Không đính ước chẳng định kỳ
Hương trời vô tận bóng dài phôi pha
Ấy trong ngọc ấy ngoài ngà
Tình như mộng tưởng ấy là quên nhau
22.2.1994
Bùi Giáng
(trích từ tập thơ: Vào chung cục thơ-La commune poétique aventure
Bùi Giáng-Ngô Văn Tao, nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn-Việt Nam 2000)

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2009

Chung Cục của Lịch Sử - The End of History


Quế Anh (oil pastel on paper)

Chung cục của lịch sử - The end of history


Twenty years ago, the fall of the Berlin Wall

The End Of History?


In Hegel’s “Dialectics of History”, government is the embodiment of the nation’s collective spirit. All apparent contingent events of history are stages of the logical unfolding of the sovereign reason which is embodied in the State. The key to historical fulfilment is the rational realisation of unity, a unity that can in time come to connect individuals with each other and with the world in which they live. Universal social human history is the product of reason leading to reconciled humanity, at one with itself, living according to shared morality and rules of laws.

For Marx with his materialist philosophy, the labor of historical development should be in materialist terms. The first step is to get out of the state of “master and slave”, but also by the proletarian revolution, which liberates the society from the unhumane capitalism, leading towards communist society, of human brotherhood in justice and in common life with all means of material productions to be in sole possession of the community. In the A.Kojève’s stance, this processual movement in which division is subjected to reconciliation and unity culminates in the “End of History”.

Taking the word from Kojève, the popular essay of Francis Fukuyama has as title “The End of History” . That was in 1989, at the fall of the Berlin Wall, the disgrace of communism in Eastern Europe and in Russia and the end of cold war, Fukuyama argued that Liberal Democracy ( of the Western Europe and of The United States of America), conquering rival ideologies like monarchic conservatism, fascism and communism, may constitute “the end point of mankind’s ideological evolution” and “the final form of human government” and as such constituted “the end of history”.

It is in fact a “conservative and populist” thesis. Albeit pleasing the Right and the conservative crowds in Europe, and particularly in U.S.A. of which Fukuyama is a citizen, this celebration of liberal democracy hegemony, Judeo-Christian civilisation of The West, is commonly criticized.

J.Derrida pointed out:

“For it must be pointed out, at the time when some (as Fukuyama) have the audacity to neo-evangelize in the name of liberal democracy that has finally realized itself as the ideal of human history: never have violence, inequality, exclusion, famine, and thus economic oppression affected as many human beings…”

Liberal democracy is by essence capitalism, “the free market” but also “the perennial imperalism of financial trust”. The capitalism being unable to regulate itself in its drive for profit, the actual economic world crisis had its cause in this fundamental internal contradiction. The existence of Israël is not the problem, but Israël as imperalist and racist power, sustained by the Jewish Financial world lobby, is also the internal contradiction of liberal democracy of the west; the Sionist state could not stop its expanding colonisation in the middle-east, crushing the Palestinian people, a second class nation to be forsaken in sufferings and in exile. Muslim Fundamentalism, Jihad terrorism are not fights against civilisation, against life, against the West but struggles for recognition, assertions of peoples’ own dignity, rights and ways of living.

Morevoer, liberal democracy-capitalism implies for pure profit unbridled scientific and technical developments for consumer demands, detrimental to the ecology, to the natural world of the very human living. Fukuyama seemed to concede himself so that his thesis was incomplete: “There can be no end of history without an end of modern science and technology” (quoted from “Our Posthuman Future” 2002 ). As a matter of fact, he contradicted his own thesis for the possibility of an “end of history” - which means the termination of human social evolution! - when he wrote in the last paragraph of his essay:

“The end of history will be a very sad time. The truggle for recognition, the willingness to risk one’s life for a purely abstract goal, the worldwide ideological struggle that called forth daring, courage, imagination and idealism, will be replaced by economic calculation, the endless solving of technical problems, environmental concerns, and the satisfaction of sophisticated consumer demands. In the post-historical period , there will be neither art nor philosophy..”

22.11.09


Cáo chung của lịch sử?

(Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày xụp đổ Bức Tường Berlin)


Lịch sử nhân loại nhìn chung, theo triết gia Hegel, là sự chuyển biến thăng hoa của tinh thần nhân loại đi tới xã hội thế giới tôn trọng ước vọng chính đáng của từng người, trong sự tự nhận thức chính mình và cảm thông nhân loại như một cộng đồng chia sẻ phận nhân sinh trên vị hành tinh này. Chuyển biến là chuyển biến lý tính theo biện chứng pháp, tân tiến bất tận từ quy định này sang quy định khác của xã hội con người. Với cái nhân sinh quan xã hội của đầu thế kỷ thứ mười chín, sau cuộc cách mạng dân chủ 1789 Pháp Quốc và tuyên ngôn nhân quyền của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, thoát khỏi ách thống trị của Đế Quốc Anh, Hegel nhìn nhận sự biến chuyển xã hội nhân loại cốt yếu trước hết từ bỏ thể chế xã hội “có Thầy và có Tớ” ( Maître et Valet) để đến xã hội mà con người ai cũng bằng ai, mọi người đều đóng góp xây dựng những quy luật cho đời sống xã hội. K.Marx đồng ý với Hegel, nhưng vào giữa thế kỷ thứ mười chín với sự bành trướng của kỹ nghệ cùng sự tăng trưởng của giai cấp công nhân lao động, Marx nhấn mạnh động cơ vật chất của lịch sử, sự chiếm đoạt tài sản và quyền thống trị bởi một số người, một giai cấp (gia cấp tư bản). Theo Marx, biến chuyển lịch sử xã hội không chỉ là từ bỏ thể chế “có Thầy và có Tớ” mà bắt buộc phải là sự quật khởi nổi loạn của giai cấp vô sản lao động mà lịch sử là sự bị đàn áp và bóc lột. Nên theo Marx, cái xã hội lý tưởng cứu cánh của sự biến chuyển thăng hoa của xã hội con người, không chỉ là dân chủ theo cái ý của Hegel mà còn phải là xã hội cộng sản, xã hội mà guồng máy sản xuất vật chất phải là của chung, con người ai cũng như ai không sở hữu tư sản, đóng góp lao động theo khả năng, đồng đều hưởng thụ những điều vật chất cần thiết chính đáng trong cuộc sống. Cái xã hội lý tưởng cứu cánh đó, Alexandre Kojève gọi là “chung cục của lịch sử” (the End of History), viễn tượng trong hoài bão không cùng của nhân loại.

Francis Fukuyama dựa trên từ của Kojève viết tiểu luận với đề tài: “Sự Cáo Chung của Lịch Sử” ( The End of History – từ dịch của mạng Talawas), năm 1989. Một tiểu luận tương đối được nói tới nhiều, có lẽ theo tôi nghĩ vì khía cạnh “bảo thủ và bình dân túy” ( conservateur et populiste), tôn vinh văn hóa Tây Phương, đặc biệt phù hợp ý thức bá chủ của đế quốc Mỹ. Vào năm 1989, trước sự tan rã của khối Xã Hội Chủ Nghĩa Sô Viết- Đông Âu đưa đến sự xụp đổ của bức tường Berlin, chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh, tiểu luận Fukuyama tuyên dương Xã Hội Dân Chủ Phóng Khoáng (Démocratie libérale – Talawas dịch) Âu Mỹ; nếu tất cả các quốc gia trên hoàn cầu hòa đồng đi đến cơ chế chính trị xã hội đó, thì có lẽ chúng ta có thể “cáo chung cho lịch sử”. Thật là một xác định phi lý, trái ngược với lý thuyết biện chứng pháp của Hegel trong sự “hiện thành” (le devenir) biến chuyển bất tận của (khái niệm) xã hội với những quy định hữu hạn và tự phủ định, hướng về chân lý. Rất nhiều học giả đã phản bác Fukuyama.

Tuy nhiên thật khó phản bác được Fukuyama rằng Xã Hội Dân Chủ Phóng Khoáng tây phương hiện đại là xã hội quốc gia tân tiến nhất trên trái đất, một nhận định hoàn toàn phù hợp với tâm tư bảo thủ Tây Phương và “bình dân túy” trong quần chúng tây phương, đặc biệt nhất ở Mỹ Quốc, mà Fukuyama là một công dân, với sự tự hào cố thủ của xã hội nước giàu cấp tiến trước sự trỗi dậy của những xã hội nước nghèo đang thoát ly tối tăm và lạc hậu. Nhưng nếu nhìn theo quan điểm lịch sử phổ quát nhân loại (l’histoire universelle du monde) của Hegel, xã hội dân chủ phóng khoáng Tây phương chỉ có thể là một quy định hữu hạn, tự nó tiềm ẩn mâu thuẫn.

Theo quan niệm hiện đại, Dân Chủ là toàn thể người dân có quyền tham gia định đoạt quy luật xã hội đời sống của cộng đồng bằng những lá phiếu. Nhưng ở những nước “độc tài đảng trị”, chúng ta thấy luôn luôn là những trường hợp khống chế “hơn 90%” người dân bỏ phiếu theo chỉ thị cũa đảng (hay của lãnh tụ). Ở Âu Mỹ, cũng không hoàn toàn là chân thật công lý, những quyền lực có tiền tài, nắm được phương tiện tân tiến truyền thông áp đảo quần chúng bỏ phiếu theo mưu đồ đen tối nào đó. Đó là sự kiện tổng tuyển cử bầu G.W.Bush làm tổng thống Hoa Kỳ (2000-2008), để rồi mở cuộc chiến tranh không chính nghĩa, chiếm đóng Irak theo mưu đồ của tập đoàn tài phiệt dầu khí, hàng trăm ngàn người dân Irak bị giết hại trong chiến tranh, đất nước Irak lầm than nội chiến và chống đối ngoại bang, mà đế quốc Mỹ cũng phải sa lầy trả giá ở đó cho đến bây giờ.

Xã Hội Dân Chủ Phóng Khoáng Tây Phương căn bản là Tư Bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường và tự do đầu tư lợi nhuận. Tư Bản tự do chủ nghĩa trong mấy trăm năm qua cho đến nay là động cơ cho sự tiến triển kinh tế khoa học kỹ thuật của nhân loại. Nhưng chính nó đưa đến “Nghệ thuật phổ quát kỹ nghệ lợi nhuận” (Adorno), con người mất nhân tính, chìm đắm với những nhu cầu tiểu xảo thừa thãi. Tư bản tự do chủ nghĩa mang sẵn cái mâu thuẫn hiển nhiên là vì với tư bản chủ nghĩa, kinh tế sản xuất phải luôn luôn tăng tốc phát triển, để rồi một ngày nào đó xã hội loài người sẽ sa đọa trong một thế giới thiên nhiên ô nhiễm nguy hại cho chính sự sinh thái của con người. Chính nó không biết tự điều tiết, cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới hiện nay chính là hậu quả của sự đầu tư thái quá vụ lợi của những “ngân hàng cho vay lãi”.

Tư bản kinh tế thị trường chủ nghĩa phản ảnh bản chất tranh đấu tư lợi của con người; nên xã hội Dân Chủ Phóng Khoáng Âu Mỹ không giải quyết cho xã hội thật được đồng đều phồn vinh. Không “có thầy và có tớ”, nhưng vẫn còn những người đói khát, những tầng lớp người thiếu thốn khốn khổ ngay trong những xã hội quốc gia cấp tiến (như chính Mỹ Quốc). Hơn nữa, bắt nguồn từ văn minh Đế Quốc La Mã, văn minh Cơ Đốc giáo, Dân chủ Tư Bản Tây phương có cả mấy trăm năm quá khứ của thực dân đế quốc, cái khía cạnh chiếm đoạt bá chủ thế giới nay thể hiện với những công ty, những tập đoàn tài phiệt quốc tế, cùng lúc tuyên dương nền văn hóa duy nhất, văn hóa Tây phương. Điển hình là cái u nhọt, theo chính triết gia Jacques Derrida cái u nhọt không phải là sự thành lập nhà nước Do thái (Israel) mà là sự duy trì, nhờ tập đoàn tài phiệt Do Thái thế giới, nhà nước Do Thái, tuy là dân chủ phóng khoáng Tây phương, như một thực thể kỳ thị chủng tộc, theo đạo Do Thái (Sionisme) , chủ nghĩa của “dân tộc được chọn” (le peuple élu!), một đế quốc giữa khoảng trời đất của những người Hồi Giáo, không ngừng chiếm đoạt bành trướng xây dựng trên tang thương lưu đày người dân Palestine. Cho nên nhìn theo “lịch sử phổ quát nhân loại” chúng ta chỉ thấy sự mờ ám hầu như bất tận, chiến tranh không kết thúc hiện tại. Chủ nghĩa Hồi Giáo Bảo Căn Đế (Fondamentalisme Islamique), “chủ nghĩa khủng bố” đều không phải là chủ nghĩa phủ nhận văn minh và “đời sống” nhân loại, mà là sự phản kháng của những giáo hội, những quốc gia, những con người đòi “quyền thể trọng” (the recognition). Sự phản kháng đòi hỏi đó, theo Hegel, chính Fukuyama cũng nhắc lại, là một trong những động cơ làm biến chuyển lịch sử.

Mấy ý trình bầy trên đủ chứng minh Xã Hội Dân Chủ Phóng Khoáng Tây Phương không thể đưa đến sự cáo chung của lịch sử”, dù A.Kojève có bạo ngôn nói rằng chính xã hội Hoa Kỳ đã là một “xã hội cộng sản”. Theo J.Derrida (trong triết luận “Những Bóng Ma của Marx”), nếu tiểu luận “Sự Cáo Chung của Lịch Sử” của Fukuyama được Tây Phương rộn ràng bàn cãi tới, chính là vì nhân loại đang khắc khoải tự hỏi về “xã hội ngày mai của con người”. Lịch sử sẽ đi về đâu? Đến Xã Hội Pháp Quyền phổ quát nhân loại? Đến Chiến Tranh thế giới thứ ba, cho những người đòi quyền thể trọng, đòi phần sống? Còn Fukuyama cũng như tự phản bác chính mình viết câu kết luận dưới đây cho tiểu luận của mình; Fukuyama thầm nghĩ chăng là “không thể nào có Sự Cáo Chung Của Lịch Sử”?

“Chung cục của lịch sử” sẽ là vô cùng ảm đạm. Sự tranh đấu “đòi hỏi quyền thể trọng”, sự nhất trí quyên sinh vì lý tưởng siêu thực, thế giới đối lập những tư tưởng chủ nghĩa, thế giới của nhũng kẻ xung phong, can đảm, đầy tưởng tượng và lý tưởng sẽ không còn nữa chỉ còn lại là những tính toán kinh tế, không ngừng giải mã những vấn đề kỹ thuật, những vấn nan môi trường sinh thái, và sự đáp ứng nhu cầu tiểu xảo của con ngưới. Còn đâu nghệ thuật và triết lý?”

19.11.2009

Ngô Văn Tao

www.gio-o.com/ngovantao

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2009

Trầm lặng - The silence of pains


Quế Anh (oil pastel on paper) . . . .Trầm lặng – The silence of pains



Plaintive ballad

Silence
Silence of music
dying on the waves of Time
Silence
Silence of footsteps
that Life has taken apart

Memory of instants
to undo and to reconstruct
for a new image of the images
the renewal of melody

The note’s drawn out from the depth
when the echo was dead
the wind chased away the rain
silence – the voice’s mute

The youth-seasons being lost
will you come back in the night?
I keep the broken heart
for the pains which are fading away

Silence
Silence of our love
that nothing could restore
20.11.2009


La complainte originale
Peine

Silence
Silence de la musique
que le temps efface
Silence
Silence des pas
que la vie sépare

Souvenir des instants
à défaire et à reconstruire
nouvelle image de l’image
le regain de mélodie

La note est tirée de l’oubli
quand l’écho ne résonne plus
le vent a détourné la pluie
silence – toute voix s’est tue

Notre jeunesse a été perdue
ton regard revient dans la nuit
j’ai encore le coeur ému
de notre peine qui s’enfuit

Silence
Silence de notre amour
que plus rien ne répare
11.2.94

Đau thương

Tình yêu im lặng từ đầu
Từ đau thương tới dãi dầu lặng im
Im-im im vắng chìm chìm
Bước chân lặng lẽ kiếm tìm chia xa
Phút giây xưa cũ đậm đà
Về trong vô tận đầu hoa cuối cùng
Phá đi rồi lại hoàn thành
Một hình ảnh một bóng hình xưa xa
Lẫy lừng cung bậc cầm ca
Ngấm ngầm như thể từ ta quên người
Mỗi phen gió giậy hoa cười
Gió đi đổi hướng mưa bùi ngùi tim
Lặng im – mọi tiếng im lìm
Tình yêu – tuổi trẻ nổi chìm mất đi
Mắt người mãi mãi trở về
Trong đêm nhắc lại lời thề trăm năm
Niềm vui gượng, nỗi đau ngầm
Đi đi tình mộng chín tầng còn lưa
Lặng im nắng sớm mưa trưa
Tình yêu vô tận từ xưa mất rồi
12.2.1994
Bùi Giáng
(trích từ tập: “Vào chung cục thơ – La commune poétique aventure. Bùi Giáng-Ngô Văn Tao. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, TP HCM 2000)

Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2009

Tuyên Ngôn - Manifesto


Quế Anh (oil pastel on paper) Một ngày mới – A new dawn


Manifesto

We have our strolls
under the palms’shadows
and in the sun
our hearts full of wonders

We have many dreams
and a design to remind
to the crowds in the city’s alleys
we talk and give
the choice of life’s meanings

Oh! beauties without any make-up
we are poets
bearing the Cross of Love

We are dispossessed
but have humble visions
to overcome damnations
and find back the Nation’s legends

We come and implore the People
for the memory of our first yearnings
the souvenir of the lullaby
which has cradled us in yersteryears

We do need no more words
old men in rags and tatters
in the name of history and our hope
we’ll toast in a banquet
the Genii of our Land

Bui Giang-Ngo Van Tao ( english translation by ngo van tao)


Manifeste


Nous nous promenons
sur les sentiers ombragés
et au soleil
le coeur empli de merveilles
nous avons de rêves multiples
tout un dessein à redire
dans la foule et dans les ruelles
nous avons la parole
pour donner et pour choisir
oh! beautés simples et sans fard
nous sommes des poètes
chargés de la croix d’Amour
nous sommes démunis
humbles de notre vision
pour défier les perditions
et retrouver la légende du Pays
nous sommes là pour prédire au peuple
le retour à la première aspiration
aux mémoires de la berceuse
que nous avons su entendre
à la sortie de notre enfance
nous sommes sans le mot
et comme le peuple vêtus de haillons
mais ne leur nom
at au nom de l’espoir
nous allons dans un banquet
parler aux Génies du terroir

manifeste de “Vào trong cục thơ-La commune poétique aventure
Bùi Giang-Ngô Văn Tao. 2000)


Xứ Sở Này (Tuyên ngôn của chúng tôi)

Chúng tôi dong duổi dạo chơi
Quang co lối cũ bóng mai dịu dàng
Co quanh lối dọc đường ngang
Rạng ngời nắng ngọc vạn ngàn tâm tư
Trái tim huyền tuyết bất ngờ
Tìm trong mộng tưởng đợi chờ tin yêu
Nói đi nói nữa nói nhiều
Toàn nhiên sáng sớm xế chiều nói thêm
Giữa người kẻ giữa chị em
Dập dìu phố tịnh ngó xem lối mòn
Để cho để chọn để còn
Ồ vâng! Em ạ, chon von em ồ
Ngây thơ thuần phác Lồ Gồ
Chào em như thể tình đầu thiên thu
Chúng tôi – người ngợm tuyệt trù
Hai vai gánh thập giá kỳ vĩ yêu?
Tuy nhiên viễn tượng dập dìu
Bình minh đứng giữa ngọn triều hỗn mang
Giấn thân tìm lại muôn vàn
Nước non sự tích đá vàng đuổi đeo
Chúng tôi đánh giậy bọt bèo
Tâm tình trao đổi ngặt nghèo mai sau
Niềm ước vọng thuở ban đầu
Trùng lai tưởng niệm nhiệm màu mẫu thân
Đơn sơ ru ngủ bao lần
Điệu ru vô tận vô ngần dư vang
Tuổi thơ thoát xác lên đường
Chúng tôi xin phận lầm than bần cùng
Áo quần rách rưới vô chừng
Mà tim máu cứ không ngừng trào tuôn
Nhân danh thôn dã phố phường
Chúng tôi biết điệu buông tuồng chịu chơi
Với thần thánh đất tiên đời
Với thần mộng mị với đời thần tiên

1994-Bùi Giáng

(trích từ tập thơ “Vào chung cục thơ-La commune poétique aventure”
Bùi Giáng-Ngô Văn Tao Nhà xuất bản hội Nhà Văn , TPHCM 2004)

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009

Hồn du mục - The soul of a nomad


Quế Anh (oil pastel on paper) Hồn Du Mục – The Soul of a Nomad


You come home from far-away.

The country, with its leaves and its flowers, with its mountains and its rivers, is ready to keep you forever under the spring sky.

Would you take me along in an unfathomable dream

That we are poets giving colours to life.

That we are poets with our souls of nomad but keep on being the being in the house of Verb and Melody




Nous voulons être les poètes de notre vie (Nietzsche)

Nous voulons être poètes pour colorer la trame de notre vie.

Nous voulons recouvrer la source de la Pensée profonde – qu’un idéal insondable se lève dans notre rêve de l’immensité

….Revenir à des fins matérielles et de notre for intérieur, mais garder du ciel bleuté l’horizon d’or et d’écarlate.

Un parfum lointain irréel dans notre âme de nomade, et nous - les Étants - fixés dans notre demeure: la demeure de Langage et de Mélodie.

Que l’Etant humain reste dans cette demeure pour tout le temps de sa vie.

Nous prions les Poètes et les Sages de la conserver et y faire résonner la Parole.

Avoir la Parole et garder la grâce de la Vie.

1994 - Bui Giang

(traduction française d’un d’écrit de Bui Giang, extrait de l’avant-propos en vietnamien pour le recueil de poésie: “ La commune poétique aventure-Vào chung cục thơ” Bui Giang-Ngô Van Tao, 1994)


A vous accueillir

Les feuilles scintillantes et les fleurs épanouies sous un ciel de Printemps.

le vieux pays, avec les fleuves et les monts, est à vous attendre.

Vous revenez de pays lointains

pour des nuits irrélles de dialogue infini.

Et mon âme s’envole avec vous au-dessus du monde

qui est révélé sans frontières

dans le souvenir bleuté de peines et de souffrances qui s’effacent.

1994-Bui Giang (traduit par Ngo Van Tao )



Mấy lời mở đầu của Bùi Giáng cho tập thơ :

Vào chung cục thơ-La commune poétique aventure. Bùi Giáng-Ngô Văn Tao Nhà xuất Bản Văn Nghệ - TP Ho Chi Minh 2004


Thay lời tựa


Nous voulons être les poètes de notre vie (Nietzsche)

Chúng tôi muốn làm thơ để dệt mộng cho đời tôi. Chúng tôi sáng lập nguồn tư tưởng nghiêm mật trầm trọng nhất, giờ đây hãy cùng nhau sáng lập thực thể mộng ngàn để tư tưởng nọ tới gùn ghè chấp cánh bay.

Hãy ca ngợi trùng khơi mây trắng chân trời rạng rỡ ngày mai bình minh nguyên nhụy sương hồng.

Hãy quên đi tủi nhục của quá khứ:

Em thêu đời hồng anh nói ít lời hoa

Em ca lừng cho bốn phía sinh ca

Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới

Xin nàng Thần-Thoại hôm sau của Hy-Vọng-Vĩnh-Phúc-Ngày-Mai về trong giờ Hiện-Tại! Rồi rũ bóng xiêm lên Bích-Ngạn chiêu hoa, bảo tồn Tư-Duy vững chãi, rồi can đảm trở về bên chấp thuận Bụi-Gió-Tồn-Sinh hân hoan hướng dẫn tâm hồn thiết thực, những mục đích gần gũi chim phụng ở bên mình, rũ phượng mơ màng là lá cỏ mọc bờ tư lự giữa ngại ngùng là dìu gió phím sương bay.

Quay về với những mục đích thiết thân, nhưng không quên vòng trời hồng vàng cõi xa miền Bích-Ngạn. Hương màu xa vắng vẫn bay về bên mộng hồn Mục-Tử-Chăn-Trâu. Hữu-Thể bước vào trong ngôn ngữ. Lời ca điệu hát là ngôi nhà của Hữu-Thể.

Con người xin cư trú ở đó suốt đời.

Cầu xin thi sĩ và triết gia hãy gắng bảo vệ ngôi nhà chở che cho Hữu-Thể, đùm bọc điệu xoang.

Nói lời hoa thêu dệt đời hồng. Được chứ!

1994 – Bùi Giáng


Kính Tặng…

Hoa vàng lá lụa xuân xanh

Non sông xứ cũ mênh mông đón người

Người từ viễn xứ về chơi

Hội đàm vô tận bao lời không không

Tịch nhiên xứ xứ phiêu bồng

Niềm đau quá khứ xa dần dần xa

1994-Bùi Giáng

Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009

Tháng Mười Một - November



Quế Anh (oil pastel on paper)
Tuyết giăng đầu núi - Mountain view in November

November

In Novenber we have the last dream
to be silent to be alone to be lost
amid the mountains covered by the early snow
Did we not write down the deeds and the will?
Have we not been almost anything or something
the rock the flying bird the unheard tune
a strange flower to bloom in the November sun?
But the trees have lost all the leaves
Just late one morning we have to wake up
without wings under a sky of silence
and in our heart only the fragrance of the earth
Yes! By what a fading memory to be hurtéd
the impossible desire to stay alive
to love to give and to be excused

You and I ! are we ever to meet
the dispersive cloud the sensitive cry
the sound of running water in a dried creek
It is wonderful it is infinitely sad
to have you in my mind blown away
… …. …. … by the November wind
1989


Tháng mười một

Con đường đưa tiễn người đi
Đôi hàng liễu rủ tóc thề để tang
Con đường lá úa phủ vàng
Dấu xưa tiêu tán cỏ hoang ngậm ngùi
Tuyết giăng đầu núi chân trời
Không gian khoảng trống dặm dài mù sương
Chim đêm vỗ cánh tìm trăng
Chập chùng hồi mõ vô thường nỉ non
Ngựa đi - gió cuốn bụi trần
Cô liêu bến cũ thu tàn lá bay
Mang mang trời đất hao gầy
Lẻ loi chiếc bóng – áng mây hững hờ
Đường dài lên núi mộng mơ
Xa lìa trần thế - mịt mù rừng phong
Tháng Mười Một – lạnh lùng vào đông
Vô biên cố quận hư không cõi về
Tiễn người thăm thẳm chia ly
Dư hoài tiếng nước trong khe cạn dòng
Tình xưa u uất bông hồng
Lời xưa bia đá muôn trùng tạc ghi
“Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó câu khấp khểnh bánh xe gập gềnh”
Người đi áo trắng lung linh
Bao nhiêu ước mộng thâu canh ngỡ ngàng
1996

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2009

Diễn viên - An act of poetry


Quế Anh (oil pastel on paper) Diễn viên - An act of poetry


The joint adventure of poetry

Having in our mind the open universe
An waste land and a sky to offer
To realize in a flash the whole reality
Human cry and hearty appeal for love

We will tell out the unsaid speeches
Absurd desires and the lost innocence
Live again and again this dying century
In mourning and dreadful sufferings

We stand up to the end this joint adventure
Over the years and beyond our bondage
With our strength build a sky-scraper tower

Sole with the rocks and the stones of our dreams
And in the night stick the morning star
The poetry scheme, our shining destiny
1.11.2009


Le sonnet original
La commune poétique aventure

Porter en soi l’espace infini disponible
Comme un vide gratuit un ciel pour donner
Saisir dans un éclair tout le réel impossible
Le cri d’homme l’immense coeur prêt à aimer

Je vais me reprendre les paroles non-dites
Le désir de vivre l’enfance qui s’envole
Pour remonter au bout de ce siècle sans mythes
Parsemé de nos deuils – tristesses bénévoles

Car nous avons vécu une étrange aventure
Au-delà du temps et de la vie qui s’emmure
Car nous voulons construire ensemble mainte tour

Avec les rocs et les pierres de notre amour
Et dans le ciel planter l’étoile de demain
Poursuivre le rêve, notre commun destin
14.3.1994

Vào Chung Cục Thơ

Mang trong mình một không gian
Vô biên vô tận cưu mang đi về
Còn tuồng còn tỉnh còn mê
Luôn luôn ôm lấy ngón nghề thả buông
Rằng trong cuộc chết như không
Trái tim lăn lóc sẵn dâng trao người
Bấy chầy mạo hiểm ăn chơi
Cuồng điên vô tận cõi đời dở dang
Tập thành thể lệ lang thang
Lời thơ có mất vô thường còn lưa
Chúng ta người ngợm không ngừa
Trải bao buổi sớm buổi trưa bơ thờ
Không bờ trọ - kiếp bơ vơ
Vô thời vô thể không thơ không thần
Khi xưa vàng đá sông Ngân
Một lời vâng tạc vô ngần nhớ nhung
Khối tình chung bóng mông lung
Quan san tái lập nghìn trùng biển dâu
Vì nhau ở chỗ ngày sau
Cùng nhau sống mãi tuổi đầu tuổi thơ
Núi cao sông rộng miết mờ
Đoạn trường đi hết mộng mơ âm thầm
Mai rồi còn lại dư âm
Trần gian sẽ biết khối tâm tặng người
21-3-1994
Bùi Giáng – Ngô Văn Tao