ngovantao

Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2010

Bui Giang - The wise sayings

Quế Anh (oil pastel on paper) Lẽ sâu xa – The wise sayings

In memory of Bui Giang (1926-1998)


As in my inkling, my sorrows were lasting

Deep and immense with trickling tears

As I would like to always mourn

The loss of happy days in your company


The breach of early morning sun

Hazily shining over the sleepy town

I started, getting away from obscure dreams

To look for you – birds singing up in the trees


You would be there, serene and gracious

By an old bodhi tree, ready to talk over mysteries

Being and Non-Being, the ever-living futility


Men trying to get out of misery

And I knew how to survive my nightmares

Keeping in my mind your wise sayings

27. 6. 2010



Tưởng Nhớ Bùi Giáng (1926-1998)


Nơi nào có vết thương đau

Về đâu mối hận mai sau vô cùng

Âm thầm giọt lệ nhớ nhung

Trong xanh nắng đẹp con đường vắng ai


Tưng bừng chim hót vòm cây

Mùa xuân rộn rã lá hoa đầy trời

Riêng ta lạc lõng mây trôi

Tìm người vẫn nhớ câu thơ thuở nào


Tìm người trở lại vườn xưa

Gốc cây vắng bóng còn ai chuyện trò

Nghe người hiểu lẽ sâu xa


Sự đời sự thế bao la cõi trần

Hư vô rũ áo trầm luân

Ngàn sau để lại nỗi sầu tạc ghi

2000



Le sonnet original

A la mémoire de Bui Giang (1926-1998)


Comme je prévoyais la douleur à venir

Elle me revenait persistante et immense

Les gouttes de pleurs à ne pouvoir retenir

Peines des jours passés à manquer ta présence


A manquer l’attente des matins lumineux

Le soleil à briller sur les rues de la ville

Et je partais chargé de songes ténébreux

A te revoir – Les oiseaux chantaient dans les feuilles


Tu serais là, empreint de ta sérénité

Sous un arbre, prêt à deviser du mystère

De l’Etant-Non-Etant, de la futilité


De l’homme qui cherche à combattre sa misère

Tu avais su me libérer des cauchemars

Mais de ta mémoire…personne ne pourra!

1999

(extrait du recueil de poésie: Papyrus – Ngovantao 2000)

Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010

Độc thoại - Hoàng tử rơm. Monologue (the straw prince)

Quế Anh (oil pastel on paper) Lá súng trong ao – Nenuphar leaf in a pond


The Straw-prince

Monologue


In my hands the iridescent bubble-dream, the dream of becoming, I go up to the stage to play the dark character, the rain-man; between royalty, I am a plebeian; in the cave of mirrors, I am the sovereign with multiple of my own image-subjects, realizing the common cowardice, but also the submissiveness, which is the strength to create empire and to build God’s temples.


In the world of wan faces, I have the unchanged surrounding, the subground where I have to cry out, through a gag, my despair and my hate; of the people’s mean plots, I know the secret and the thread to take us to idolatry, slaves’reverence, swerving the course of history with falsehood.


An emblem to be taken down, with rags and tatters’flag, I have an army in the wings to combat the wind-mill, to tame my enemies; going up the echelon, I am no more a servant; I willingly stoop to take up the prince’s broken crown; with my disgrace and baseness, I make the new nobility; with beggars on horseback, I am the supreme guide of countrymen’s kermesse.


In the curtains’shadowy light, I have the distress and anxiety for the coming act; behind the scene-plotter, I am the maimed anarchist, who is thrown out of the “order”, stratified emanation of horrid envy; revolutionary, I am the mummified cadaver given to vultures in the marble mausoleum, not surviving my contradictions, getting lost in oblivion and in the eternity’s silence.


With all these parts in the play, shall I ever be the prince of the tale? I blaspheme, I am at the end of the road: captain with an ivory-leg, always in rebellion and in denial, I am the master of a boat, adrift in pursuit of the monster, which is the creation of my fantasy, of my sad human condition with absurd desires.

22. 6. 2010


Hoàng tử rơm (trích)

Độc thoại


Trên tay tôi quả bóng nước sắc màu định mệnh, tôi bước lên sân khấu trong vai trò người điên, pháp hề cầu mưa; giữa vua chúa, tôi là thằng hèn; trong cái hang bốn tường gương, tôi là chúa tể hình ảnh tôi tỏa hiện chập chùng; tôi biết tự khinh mạn và cúi đầu nô lệ để chờ được gọi đi dựng vuơng quốc và khiêng đá đắp xây tháp đài.


Thế giới của những người nộm giấy bồi, trong bóng tối, trong ngục tù sâu thẳm, dẫu bịt miệng, tôi gào lên hận thù căm hờn tuyệt vọng; tôi nhận ra những ý đồ hèn hạ, những mánh khóe xảo quyệt để chúng chiên an phận tôi đòi trong lịch sử lệch lạc bởi những lời gian dối.


Dâng cao ngọn cờ giẻ rách đập vỡ những tượng đài, tôi có bầy quân núp trong hậu trường; tôi đấu chiến quạt xay lúa, tôi dẹp kẻ thù; tôi là tướng công, không còn là thằng hầu; tôi hạ mình nhặt lên vương miện đạp xuống bùn đen; với tội lỗi và gian trá, tôi là người hùng; hỏa đầu học làm oai, tôi là lãnh tụ cho lễ hội bình dân chợ làng.


Sân khấu đèn mờ như muốn tắt, tôi hoảng hốt và lo âu trong hồi kịch nối tiếp; gian sư nấp sau chiếc bình phong, tôi vô thần, vô đạo truất ra khòi “trung uơng” như đồ thừa tàn phế; tôi không có chỗ trong lớp gấp của sự đê hèn ti tiện; dấn thân cách mạng, tôi là cái xác khô vứt cho quạ đen trong nhà mồ cẩm thạch, mang đầy mâu thuẫn tôi chìm vào im lặng ngàn thu quên lãng.


Đóng vai trò, những nhân vật đổi thay mặt nạ, tôi không là hoàng tử của ngụ ngôn; tôi phạm chúa, tôi là chủ thuyền với chân phải bằng ngà voi, đưa chiếc thuyền nát lạc lõng đuổi theo quái vật, con quái vật của linh hồn tôi, của phận người ôm mang dục vọng giữa vô cùng.

22. 6. 2010



Le poème original

Le Prince de paille (extrait)

Monologue


Dans mes mains la bulle irisée, le songe absurde, le rêve du devenir, je me montre sur le plateau puisqu’il m’est donné le personnage masqué, le faiseur de pluie; parmi les rois, je ne suis qu’un sujet; entre les murs aux miroirs, je suis le souverain de mes semblables maintes fois multipliés, comprenant la lâcheté commune, la résignation pourtant digne de construire des temples et bâtir des empires.


Le monde à contempler, le monde de papier mâché, j’ai le décor à jamais inchangé et le sous-sol où je me suis assigné en un seul décret à crier dans le noir de ma voix baillonnée le désespoir et la haine; des intrigues, je connais le secret, le fil qui mène à l’idolâtrie, à la vénération des esclaves, déviant l’histoire des édits et des mensonges.


L’emblème à défaire, le drapeau de guenilles, j’ai l’armée des coulisses; je combats des moulins, je dompte les ennemis; à la montée des échelons, je sais être autre que le valet; je m’abaisse volontiers pour reprendre la couronne brisée des princes bien nés; avec mes hontes et mes peines, je fais la nouvelle noblesse; entre parvenus, j’ai le sourire béat du guide suprême des kermesses.


A la pénombre du rideau, j’ai le désarroi et le trouble de la période qui suit; la face cachée des luttes partisanes et des complots, je suis l’anarchiste mutilé à l’écart de l’organisation, l’émanation stratifiée de l’écran des envies; révolutionnaire, je suis un cadavre momifié, livré aux vautours dans un mausolée de marbre, ne survivant pas à mes contradictions, à l’oubli et au silence de l’éternité.


Tous ces rôles donnés, tous ces rôles délivrés, serai-je jamais le prince des fables? Je blasphème et je suis au bout de mon chemin; je suis le capitaine à la jambe d’ivoire, ayant toujours en moi cette révolte, ce constant refus; je règne en maître sur le bateau de détresses, poursuivant à la folie ce monstre que j’ai créé avec mes phantasmes, ma triste condition et mes désirs.

1988

(extrait du long poème: “La Prince de paille”, dans le recueil de poésie Papyrus- Ngovantao 2000)

Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2010

Đạo đức kinh - The straw-prince (epilogue)

Quế Anh (oil pastel on paper) Đạo Đức kinh – A parchment

The straw-prince

(Epilogue)


Once upon a time

A child was born as oldman

With white hair

He was the neglected adviser of the emperor

But the kingdom wisemen

Kneeled by his hut

The shanty open to the winds

To the springs’whistle

To the whisper of summer-days


Once upon a time

An old man kept on being a child

Albeit the innocent look

His figure was stamped with passions

Covered with deep wrinkles

As if the wisdom was already so hard

To carry in this ancient time

The oldman-child was not a prince

But as light as a straw-man

He left by himself the city

Going beyond the city-walls

He followed the bank of a river

Which was not flowing to the sea

But to die in the silence of a desert

On his path we found for our own mercy

The five thousands words of his thoughts


That was a parchment of the past

With the written words to remember

Having anew the vision of our origin

The river bank and the forgotten sky

The meaning of a poem

The sound of winds and the light of stars

To be waked again

Flying over the worthless world

Looking for our way back to the lost kingdom

10. 6. 2010


Hoàng tử rơm (đọan IV)

Đạo đức kinh


Ngày xưa đã có

Một đứa bé chưa lớn mà đã già

Tóc trắng ngay từ buổi đầu

Gián quan bỏ lãng của hoàng đế

Những hiền giả của vương quốc

Đều đến quỳ bên mái tranh

Gió thổi lại từ bốn phương

Rộn ràng tiếng suối chảy

Muôn vật thì thào trong nắng hạ


Ngày xưa đã có

Một ông già ở mãi làm hài nhi

Với cái nhìn ngây thơ

Với bộ mặt đam mê

Những đường nhăn rất dày

Vì thời xa xưa đó

Hiền triết đã là gánh nặng

Lão-hài-nhi không phải là hoàng tử

Nhưng nhẹ như cọng rơm

Một ngày người bỏ kinh đô

Đi theo bờ sông về sa mạc

Của sự tĩnh lặng muôn đời

Người để lại cho chúng ta

Những con người lạc lõng

Năm ngàn ý tự

Ý tự của hiền sư


Ngày xưa đã có

Cái thời xa mất rồi trong trí nhớ

Làm sao đây ta tìm lại cội nguồn

Cát vàng bờ sông ấy

Những vì sao lấp lánh

Giữ lại ý của hiền sư

Như lời thì thào của gió

Như tia sáng đến từ hư vô

Để chúng ta cùng tỉnh lại

Bay bổng ngoài tầm gian dối

Về vương quốc không tên của trần gian

11.6.2010


Le poème original

Le Prince de paille (épilogue)


Il était une fois

un enfant qui naissait vieillard

les cheveux déjà blanchis au commencement

il était le conseiller négligé de l’empereur

mais tous les sages du royaume étaient venus

s’agenouiller au seuil de sa demeure

le vent y entrait de quatre coins

nous entendions le ruissellement des eaux

le bruissement continu de l’été


Il était une fois

le vieillard qui demeurait enfant

malgré le regard qui venait de l’innocence

le visage éclairé empreint de passion

les rides étaient profondes

comme si la sagesse était déjà dans ce temps

un fardeau trop lourd à porter

l’enfant-vieillard n’était pas le prince

mais il avait la légèreté de la paille

enfin de la cité il quitta la muraille

il s’en allait le long du fleuve jusqu’au désert

là il n’y avait plus que silence

il avait laissé à nous troublés

de ses cinq mille mots la sereine pensée


C’était une fois

du temps passé que nous retrouverons

comme nous avons la vision de notre origine

la rive du fleuve et l’astre inconnu

de ce poème retenons-nous le sens

le bruit des vents le scintillement des étoiles

nous nous en réveillerons

ailés sur le cours des intrigues

entrant au royaume sans nom de notre monde

1988 (extrait du long poème:”Le prince de paille”- dans le recueil Papyrus. Ngovantao 2000)

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2010

Cách biệt - Separation

Quế Anh (oil pastel on paper) Xa Cách – Separation


Separation


As in the twilight of a summer-day

A moving instant of tears and pains

A faintly blooming rose but so blue

The separation was all of my sorrows


Just a cloud to look at and to dream

For remembrance, regrets and loneliness

Silence and absence but never to forget

The veiled figure so heart-rending


Fleeting was the happiness

Irreal the happy days

The sun scarcely came out

It was already the night


To miss your presence to prolong my weariness

I keep on looking for you,coming out of the sea

Between the waves

Which were dying on the beach

6 June 2010



Le sonnet original

Séparation


Tel qu’un soir de l’été qui jamais ne revient

Un émouvant instant fait de larme et de peine

Telle que cette rose à peine éclose et bleue

La séparation est tout de ma douleur


Rien qu’un nuage à regarder, à en rêver

Du souvenir et du regret, la solitude

Absence silence mais comment oublier

Le visage voilé, reste ma déchirure


Le bonheur est de blessante fragilité

Et les beaux jours sont donc d’une irréalité

À peine le soleil mais il fait déjà nuit


Manquer une présence et prolonger l’ennui

Je me rappellerai – vibrante ton image

Aux ondes de la mer qui meurent sur le sable

13.3.1994


Cách biệt

Như thiên như thể cảnh trời

Tưng bừng mùa hạ bao giờ về không?

Y nhiên như thể đóa hồng

Hàm nhiên nhất nụ phiêu bồng xuân xanh

Xa nhau đau đớn ngọn ngành

Của tôi từ độ tan tành tuổi thơ

Ôi mây nổi ở cuối bờ

Tiếc thương kỷ niệm ôi mờ xưa xa

Niềm cô độc, máu tim ta

Hình dung man mác từ ta thiếu người

Thôi hạnh phúc! Nỗi nhớ đời

Ngày vui đi mất biển mời canh năm

Cái giờ ngất tạnh mù khơi

Dặm khuya từng giấc từng giờ liên miên

Và em – hình ảnh nối liền

Như bao mộng tưởng ưu phiền tan hoang

13.3.1994

Bùi Giáng

(trích từ tập thơ: Vào chung cục thơ-La commune póetique aventure. Bùi Giáng-Ngô Văn Tao

Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Việt Nam 2004)