Nội Tâm độc thoại
Lệ Hà (1933-2012) Sơn dầu trên bố (trích)
NỘI TÂM ĐỘC THOẠI
Trong hành trang của
Giáng trong chuyến đi này, đến Sapa Cõi Tịnh, Giáng mang theo quyển truyện “Virgile, nhà thơ trước giờ lâm chung” (
“La mort de Virgile”, traduction française, de Hermann Broch).
Hermann Broch (1886-1951), người Áo viết quyển truyện này vào những năm
1938-1945 trong tiếng Đức, cầu kỳ khó hiểu nên ít người nói tới, nhưng với đề
tài lôi cuốn. Quyển truyện hơn 500 trang
cốt là viết ra những cảm nghĩ “nội tâm độc thoại của Virgile trong 18 giờ
nằm trên giường bệnh trước khi lâm chung”. Quyển truyện chia ra làm bốn
phần:
1) Hồi hương (L'arrivée).
Virgile, đại thi hào
La Mã ( latin, romain), lâm bệnh trong khi tuần du Trung Đông, miền của Đế Quốc
La Mã, dưới thời hưng thịnh hoàng đế Auguste, César của thành Rome. Có cậu bé
Hy lạp tên Lysanias theo hầu đưa về Brindisi, tỉnh nhà ở Ý (Italia). Đêm nằm bệnh
ở nhà trọ, nhìn Lysanias nhớ lại tuổi thơ, tình cũ, cuộc đời rong ruổi đi tìm thi
ca.
2) Lạc thời (La
descente).
Đi tìm thi ca, đi tìm
“Mỹ Tính” ( Cái đẹp,”mỹ hiện”)
trong thế gian ô trọc này! Virgile nghĩ lại tất cả sự nghiệp sáng tác thi ca của
mình. Đã làm được gì? Eneide, hùng sử ca Rome, kinh thành lập nên đế quốc
vương La mã, có nói ra lên được đâu cái bất cẩn
nằm trong Đế quốc, chiều hoàng đế Auguste, lập nên với khổ đau của người
nô lệ, lập nên với sức mạnh bạo quyền, một nền văn hóa tiền phong, sa đọa dần
trong hưởng thụ xa hoa... Virgile nghĩ đốt cháy hết sự nghiệp văn thơ của mình,
đặc biệt Eneide, như một sự thất bại, mù quáng che đậy của nhà thơ.
3) Chung cục (L'attente).
Eneide nữa! Một không
tưởng đòi đạt tới sự thật, tường tận nhân sinh tính, chỉ có thể là một ảo
ảnh. Đích thân, hoàng đế Auguste đến
thăm Virgile bên giường bệnh. Nhưng không như Hoàng đế mà như người bạn Octave
thời xưa của Virgile, cầu xin Virgile giữ lại hùng sử ca Eneide, cho vinh quang
của thành Rome, cho tên tuổi của Virgile ở lại trong sử sách. Virgile sau cùng
vì tình bạn đành phải giao Eneide cho hoàng đế Auguste, dù chính nhà thơ tự
nghĩ mình không xứng đáng gì để lưu danh trong sử sách.
4) Cái vòng đồng nhất
(l'unité)
Virgile sau cùng tự thấy
đã tới rồi cái điểm đồng nhất sống và chết, tình yêu và phụ bạc, hư vô và vũ trụ...Cái
vòng tuyệt đối (le cercle de tout) đã khép lại mênh mông nằm trong nhỏ bé,
thánh thiện trong đọa đầy thế tục. Tất cả như một điệu nhạc, một lời tình xa
xôi ru người trở về cát bụi.
Một quyển truyện hơn
500 trang như thế.
Ngoài cuộc đối thoại giữa hoàng đế Auguste và Virgile, hầu như không có một
chuyện gì xảy ra, tất cả là “nội tâm độc thoại” của nhà thơ. Một bản trường
thi ca độc thoại! Một bài thơ phát động tự tiềm thức, bất tất, không chủ định.
Những lời tự thì thầm của một người nằm trên giường bệnh, giữa sống và chết,
khi tỉnh khi mê, hồi ức và nuối tiếc.
Tất nhiên, đọc giả khó
để tâm đọc hết từng trang. Chúng ta nên
đọc như sự thật là vậy đấy, một bài thơ bất tận, lâu lâu hãy chọn một hai trang
và thông diễn giải tâm hồn của nhà thơ Virgile trong cái vĩnh hằng thế tục phận
làm người. Giáng đã tự chọn dịch ra việt ngữ một hai trang thơ ở từng mỗi đoạn
sách trên, như là một cách điển hình tiếp cận tài nghệ của Hemann Broch trong sự
tạo dựng “nội tâm độc thoại” của một tâm hồn, những cảm nghĩ tự tận cùng
trái tim nhưng lý tính hồn nhiên dẫn dắt phản ảnh thế giới hiện sinh bản thể.
Hồi hương (l'arrivée)
Mộng! Và hãy mộng
ta còn làm thơ thì ta
không trở về và còn sống trong vương quốc này của ngày đêm, ta còn có quyền mơ
trong hy vọng, hội tụ trong một nỗi nhớ nhung và hy vọng tình yêu, như thế bạn
nhỏ của ta ơi! hãy ở lại với ta trong nhớ nhung và hy vọng.
Tên con (Lysanias) là gì, ta không muốn
biết vì chỉ là cái bóng của con thôi, và ta cũng không muốn gọi con để ra đi
hay để trở về, dù có lẽ con không có tên hay con cũng không thể gọi, dù sao đi
nữa hãy ở lại với ta cho tình yêu ở lại mang hạnh phúc tràn đầy! Hãy ở lại với
ta trong trong bóng tối này! Hãy ở bên ta bến sông dài mà ta chiêm ngưỡng, xa
ngọn nguồn, không sợ chập chùng lớp sóng,
không chìm đắm trong sự cô đơn và ánh sáng độc tôn của thánh thần!
Ôi! hãy ở bên ta, che
chở và cùng ta cứu rỗi, ta muốn ở mãi bên người như bên tình yêu toàn màu ánh
sáng.
Thi nhân ngồi đây, thằng
bé tựa lưng vào đùi, mờ ảo trong bóng tối, không nhìn rõ mặt nhưng mớ tóc nâu lấp
lánh dưới ánh nến. Người nhớ lại đêm hãi hùng, của hạnh phúc và mất hạnh phúc,
đêm từ giã Plotia. Bao nhiêu năm ngày xưa nhỉ? Ta, người tình luôn luôn say mê,
nhưng cũng là kẻ chìm đắm trong sáng tác – cái mâu thuẫn mà ta phải ôm
mang. Cái đêm, ta đến bên nàng như một kẻ đắm đuối, để đọc những câu thơ cho
nàng nghe, người đẹp u huyền, người đẹp nằm trong giấc mơ của mùa đông, của những
ngày giá lạnh ước mong và chờ đợi. Nàng thu gọn dưới chân ta, vai nàng ghì bên
đầu gối và ta đã đọc bài mục ca....mà ta đã viết lên trong nỗi
nhớ nhung mênh mông vì nàng.....vì nàng ta đã viết nhưng cũng với sự nguyện cầu
thoát ly. Ta đã đọc những câu thơ tràn đầy khắc khoải mang mang hy vọng
nhưng cũng là những lời cáo biệt.
Lạc thời (La descente)
Màn
đêm quấn tròn thi nhân, nhịp nhàng mỹ hiện như giai điệu, lung
linh bóng tối vũ trụ đêm cùng trải dàì giữa những vì sao, vượt qua tất cả thời
khắc nhưng vẫn tồn tại trong thời gian, không ra ngoài trái đất, từ giới tuyến
này tới giới tuyến kia, xa xôi hay gần gũi, nội tại hay ngoại tại, hiện thực tại
mỗi điểm
màn
đêm mênh mông trên thi nhân và trong cả tâm hồn, như một con sóng tràn đầy bắt
nguồn từ quân bằng trái đất, mỹ hiện tượng trưng những biểu tượng
hình, lưu đầy đến xứ lạ hay chính tại bản ngã, một cảm thức bao nhiêu lần quen
biết nhưng giờ đây dưới ánh sáng mới, để thi nhân thấy lại chính mình, rõ từng
nét trên chiếc bóng, xa vời nhưng sáng tạo thể hiện bản ngã trong vũ
trụ, vũ trụ trong bản ngã, tỏa sáng đêm cùng, tỏa sáng thế giới, mỹ
hiện lan tràn bất tận, qua tất cả những thời đại, thời quán vĩnh hằng
đánh dấu cả thời gian mênh mông, biểu tượng hình cho thế giới quan nằm trong thời
gian và không gian, ôm mang nỗi buồn phù du, mỹ hiện nhân sinh vũ
trụ.
chính vậy trong
nỗi buồn tang tóc
chính vậy con
người cảm thức mỹ hiện
hiện thành trong
bản ngã
biểu tượng hình
và quân bằng vũ trụ
mênh mông và huyền
diệu giữa cực điểm
bản ngã cảm
thức mỹ hiện và thế giới hiện thành với mỹ hiện
những cực điểm với
từng không gian và giới hạn bản thể
nhưng quân bằng
trong một vũ trụ
trong một cõi
nhân sinh
trong một cõi đi
về
............
Mỹ hiện
tại
tận cùng thi nhân tính
giới
tuyến ngoại tại và nội tại
tại
cõi trời xa thẳm
tại một
điểm giữa vô biên và hữu hạn
tại
vùng đất hoang sâu của trái đất này
trong
thời gian của sự sống
trong
sinh thời bản thể
quãng
thời gian tồn lưu bản sinh trong không gian
mà
không tan biến
mỹ hiện ở
ngoại tại thời gian
không
loại trừ thời gian
mà biểu
tượng hình loại trừ cái chết
nhưng
không loại trừ tất cả
dù
trong cõi nhân sinh eo hẹp
hay
chính là trong cõi phi nhân tính
mỹ hiện
như
là một biến cố con người
một mỹ
thức nguyên thủy
một thế gới hữu
hạn trong vô cùng
một vô cùng huyền
ảo trong cõi nhân sinh
một trò chơi của
con người
muốn đoạt vĩnh hằng
trong cõi đi về
một trò chơi biểu
tượng hình bên bờ xa trái đất
mỹ hiện một
trò chơi bản thể
mà con người
chơi biểu tượng hình
như một cách duy
nhất
tượng trưng
thoát ly
sự cô đơn khắc
khoải phận làm người
Chung cục (l'attente)
Dẫu dù ta có biết lột
trần nhân loại để đi tới cõi thâm sâu, trơ trụi cuối cùng, gỡ bỏ thịt da trên bộ
xương, lọc xương hết tủy, phá vỡ đầu óc tư duy để chỉ còn trơ cái thằng tôi
đơn độc, xám hối trước thánh thần, cái thằng tôi u ám; dẫu dù lý
tính ta sáng suốt để có thể thi hành việc đó và ta sẽ đi từng bước, ghi chép và
trình diễn, ta cũng không thể đi tới đâu, ta chỉ biết lè tè trong thế tục, bám
chặt trái đất này, chỉ biết thế nào là sống và không bao giờ biết tới lẽ chết; moi móc từng mảnh
đêm cùng hỗn mang, đan ghép dây truyền của sự thật, cái dây truyền bất tận
chư chính là sự thật, chính là cuộc đời ngang trái, mâu thuẫn và phi lý
cầm tù mà vẫn ra đi tìm sự thật, cho đến khi như cuộc đời tỉnh ngộ nhận
ra sự chết, và chìm trong tang tóc trong ánh sáng vô cùng của sự trở về, với lý
nghĩa sâu xa đó của kiếp con người, tới điểm chung cục hội tụ sống và chết, và sự
thật chỉ là sự thật của trần gian, kết tụ ở một điểm duy nhất đó, giữa sống
và chết, và tất cả là hoài niệm trong vĩnh hằng hồi ức.
Cái
vòng đồng nhất
Vang vang tiếng thì thầm?
Plotius, người bạn đồng hành của ta, kiêu hùng và thân thiết? Ô Plotius, hãy tiếp
tục, hãy tiếp tục thì thầm trầm lặng, như từ cõi thâm sâu bất tận bên trong hay
bên ngoài, như bây giờ không còn phải lao công, như bây giờ mọi sự đã hoàn tất,
không còn gì phải thêm bớt, không còn gì cần thiết nữa, hãy tiếp tục không bao giờ ngừng; tiếng thì
thầm thật đã vang vọng từ lâu rồi, như luôn luôn và mãi mãi, tới trong tiếng rì rào không ngừng của sóng
nước, ngọn nước cuốn lăn tăn, tiếng thì thầm cũng từng đợt theo nhau, lăn tăn
là những vòng tròn tiếp nối trong một miền vô tận; tiếng thì thầm không lắng
tai cũng nghe, tiếng thì thầm không được níu giữ, nó lan đi về chốn vô cùng có
tiếng reo của suối nước, tiếng nước chảy ngầm, hòa tan trong âm thanh ấy trở
nên sinh lực không màu không sắc đưa ta đến chốn an bình, chính nó là sự an
bình, như tiếng sóng đập mạn thuyền tung tăng bọt trắng....... Bờ bến xa dần, tất
cả như là một lời cáo biệt, cáo biệt những người thân, những ngôi nhà người ta
vẫn sống ở miền xa đó, cáo biệt thế gian đang biến dạng trong cái vĩnh hằng bản
thể, cáo biệt sự thay hình đổi dạng của những vật thân quen, cáo biệt những đám
mây, cáo biệt cái đền nằm dưới mây mù ảm
đạm.
Mạn đàm
“Độc
thoại” kịch tính trình diễn cho chính mình những cảm nghĩ chợt đến chợt đi bằng
lời nói.Trong nghệ thuật văn chương, tiểu thuyết hay kịch bản, độc thoại là một
thể cách nghệ thuật tạo dựng nhân vật qua lời nói bản thân, hiện rõ với tiềm thức,
với ước ao, tình yêu, dục vọng....
Mà thật, người họa sĩ
trước tiên“vẽ trong đầu” rồi đứng trước giá vẽ, khung bố, cây cọ, sơn dầu và
màu sắc, cũng là “độc thoại” không bằng lời nói mà bằng cây cọ đưa ra những vệt
màu, triển khai trình diễn từng bước cho chính mình cái gì mà nghệ sĩ đã cảm thấy
trong nội tâm. Nhạc sĩ sáng tác cũng không làm gì hơn, “độc thoại” với mình
không bằng lời nói mà với âm thanh cây đàn. Độc thoại có thể hoàn toàn “nội
tâm”, đặc biệt như là nhạc sĩ Beethoven bị điếc rồi mà vẫn sáng tác ra những
khúc nhạc vượt thời gian, vô thanh vang lên cho mình, lý tính siêu thoát hồi ức
nội tâm.
Từ những cảm thức đột
phá trong tâm trí, triển khai “độc thoại” thật là một suy luận trải dài nghệ
thuật với lý tính, bản năng nghệ thuật, triết lý và còn khi cả khoa học của
nhân vật. Nhưng đối người bệnh, chỉ vài giờ trước khi lâm chung, những cảm thức
chỉ có thể chợt đến rồi chợt đi, và ngay cả sự triển khai “độc thoại” chỉ có thể
là bất tất, mông lung vụng về mê sảng. Nhưng tuy nhiên, với đại thi hào
Virgile, dù thế nào đi nữa cái bản năng sáng tác thi ca, cái chiều sâu lý luận
văn học phải lưu tồn trong tiềm thức. Hermann Broch nên đã táo bạo thử thách “ nội
tâm độc thoại” (le
monologue intérieur), để diễn tả cho cùng tư duy của một nhân vật như
Virgile trong những giờ lâm chung. Gần 500 trang, “nội tâm độc thoại” tuy bất tất
hay mê sảng (người yêu nhớ lại hiện ra
như một linh hồn vẫy tay dẫn dắt nhà thơ về chốn bên kia!) vẫn đột phá để có
thi ca, sâu xa suy luận về “cái đẹp”, cái “lẽ nhân sinh, lịch sử, hay xã hội”.
Hermann Broch tuy nhiên còn theo “tự nhiên chủ nghia” (le naturalisme), “nội
tâm độc thoại” của nhà thơ Virgile là độc thoại của người bệnh, trong cái nghĩa
là rất nhiều khi không có thể suy cho ra một chủ đề tổng quát, một lý luận cảm
nghĩ thông thường cơ bản nào.
Hermann Broch thật quá
táo bạo thử thách viết ra như thế cả một thiên tiểu thuyết hầu như không
chuyện, chỉ với “nội tâm đọc thoại” của nhà thơ nửa tỉnh nửa hôn mê. Nhưng
tài nghệ chuyên nghiệp văn chương làm sao lôi cuốn được độc giả? Sự thử thách
táo bạo đó, theo nhà phê bình Maurice Blanchot, có tính cách tự truyện, thành
công hay không cũng là một thử nghiệm cho văn nghệ sĩ hôm nay và ngày mai suy
tư về “nội tâm độc thoại”, triển khai theo Hermann Broch vừa “phân tâm học”
vừa “tự nhiên chủ nghĩa”, có giá trị sao về nghệ thuật trong văn thơ, tiểu thuyết
hay kịch bản.
Tháng 5 năm 2015
Ngô Văn Tao
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ