Trần Dần - Bùi Giáng
LỆ HÀ (1933-2012) Oil on canvas 120x100cm
TRẦN DẦN và
BÙI GIÁNG
Trần Dần (1926-1997), Bùi Giáng (1926-1998) là hai "hiện
tượng văn học" của hạ bán thế kỷ thứ 20. Hai nhà thơ! Đối với Bùi Giáng
thi ca là căn bản để đi đến triết lý nhân sinh và nghệ thuật; Trần Dần là thi sĩ "tượng trưng chủ
nghĩa" có hoài bão với lời thơ tác động tới con người và xã hội. Nhưng nếu
Bùi Giáng để lại một sự nghiệp đồ sộ văn thơ và triết học. Trần Dần với cuộc đời
đầy trắc ẩn không gần xa đạt được hoài bão của mình, toàn khối văn thơ của Trần
Dần đã có thể trình bày qua Trần Trọng Vũ, trưởng nam của nhà thơ, chỉ trong một
tuyển tập " TRẦN DẦN : THƠ " (1).
Tất nhiên đã có nhiều văn nghệ sĩ giới
thiệu và luận bàn về Bùi Giáng (2), nhưng phải tiếc rằng thường chỉ là những bài
ngắn gọn báo chí thông tin về con người và sáng tác thi ca, không diễn giải đến
cái nhìn triết lý sắc bén về thơ như một khái niệm bản thể của lý tính cùng về
sự nghiệp của Bùi Giáng trong quá trình thông diễn giải thơ văn Âu Á và những
tư tưởng triết học cận đại. Về Trần Dần, nhà thơ của trường phái tượng trưng chủ
nghĩa Dạ Đài (3): "Hãy đem tất cả
linh hồn, hãy mở tất cả cửa ngách của tâm tư mà lĩnh hội!" (1946), càng
hăng say bao nhiêu càng rơi vào ngõ cụt, bị khai trừ khỏi đảng cách mạng xã hội
chủ nghĩa, khỏi hội Nhà Văn, bị đầy ra trại lao động cải tạo (1956-60), mãi đến
cuối đời (circa 1985) mới được hồi tịch
hội Nhà Văn (tức là mới có phép một phần nào phổ biến văn thơ của mình), nên chỉ
có một số ít người bàn luận đến hiện tượng Trần Dần và bằng những lời đắn đo,
thêu dệt pha màu.
Tuy nhiên dù muộn màng (2006), ta có những
lời bàn rất "văn học" của Trần Trọng Vũ về văn thơ của thân phụ,
nhà thơ Trần Dần (4). Đặc biệt hơn văn sĩ nào hết, đã nói đến Trần Dần là phải
nói theo Trần Trọng Vũ đến nhan đề "Chữ
và Nghĩa", nói chung là bàn luận đến ngôn ngữ của nhà thơ. Sau
Heidegger, Bùi Giáng đã từng nói: "Hữu
Thể về trong ngôn ngữ. Lời ca điệu hát là ngôi nhà của Hữu Thể. Con người xin ở
đó suốt đời." Chỉ trong ngôi nhà đó, mà những con chữ (hay màu sắc, nét
vẽ, nốt nhạc) là khung cửa để nhìn vào đời. Những sự đời, những cảnh vật cảm nhận
trong tình yêu, trong thiện mỹ thức phải được diễn giải trong ngôn ngữ hay nói
một cách khác phải được khắc dấu thu nhận một cách này hay cách khác mới tác rộng
tới sự hiện thành sinh động của mỗi người. Đối với hai nhà thơ Trần Dần và Bùi
Giáng, những con chữ nhiều khi chính là những biểu tượng của suy tư hay cảm thức.
Bùi Giáng có câu thơ:
Em về
mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng
trăng có nguyên màu ấy không.
Trăng và màu phải là biểu tượng mông
lung cho một khung cảnh thiết tha lãng mạn, của tình yêu hay nữa của dịu dàng
hiền mẫu...Cũng về trăng, Trần Dần có câu thơ:
Trăng
mới tự bên Lào - Ai thắp xứ chiêm bao?
Trăng và chiêm bao ở đây lại là biểu tượng
cô đọng, không cho người đọc miên man suy tư; nó là biểu tượng một chốn than ôi
rất xa vời mà ở đó người ta còn biết mơ mộng. Cốt yếu theo Trần Trọng Vũ, đọc
thơ của Trần Dần là tiếp thu như vậy những con chữ, biểu tượng hay tượng trưng
một cái gì (tư tưởng, suy tư hay cảm thức) một cách cô đọng và như thế mãnh liệt
đập vào trí thức của chúng ta:
"Sống,
eo ôi, từ sống mấy ai về",
chữ "sống" ở đây tôi mạn nghĩ
tượng trưng thu gọn, đối xứng sự chết,
cả một kiếp người vào trong một quãng đời bất hạnh vô nghĩa.
Miền trong là hai câu lục bát bay bổng lai láng, ngoài ra
là những chữ cô đọng người đọc phải cố lắng nghe, cả một thế giới phân chia người
nam kẻ bắc. Trần Dần sinh trước Bùi Giáng một hai tháng, nhưng đã chết hơn một
năm trước Bùi Giáng. Trần Dần năm 19 tuổi đã có bằng tú tài toàn phần trường
trung học Pháp văn, Bùi Giáng năm 1950 hãy còn lang thang thi tú tài trường phổ
thông việt nam ở liên khu 5, chiến khu do Đảng Cộng Sản việt nam đặc quyền hành
trị. Nhưng sự khác biệt của hai nhà thơ là ở số mệnh khác nhau trong dòng lịch
sử tao loạn tàn bạo vừa qua của đất nước (lịch sử Việt nam 1946-1975).
Những năm học hỏi ở liên khu 5, Bùi Giáng chắc có tiếp cận
trong thực tế với chủ nghĩa duy vật Marx-Engel nên đã vội từ bỏ chiến khu để về
quê nhà (Quảng Nam) làm thường dân và hằng năm tự học (gồm hán văn và ngoại ngữ).
Bàng quang với thời sự, ở quê nhà và sau tự do ngao du bay bổng ở Sài thành, miệt
mài làm thơ và suy tư thông diễn giải triết lý cận đại, từ năm 1962 không ngừng
sáng tác và phát hành những tập thơ, những công trình dịch thuật văn học Âu Mỹ
và bình luận triết lý. Cả một sự nghiệp dich thuật, văn thơ và triết lý, hạ bút
là câu thơ, mở rộng tâm hồn thảo luận với chính mình là thơ của Tô Đông Pha,
Holderlin, là triết lý của Nietzsche, Heidegger...
Trần Dần ngược lại mười sáu mười bảy tuổi đã làm thơ hình
tượng, mười chín tuổi đã thân quen những bậc tiền bối văn nhân của Hà thành,
như Vũ Hoàng Chương, Đoàn Phú Tứ, Hoàng Cầm...Đặc biệt năm 1946, cùng mấy văn
nhân khác như Vũ Hoàng Chương, Dinh Hùng (hai nhà thơ có tiếng đương thời) hội
lập trường phái Dạ Đài, thi ca tượng trưng, với bản tuyên ngôn mà Trần Dần là
chủ lực từng biên soạn:
"Chúng tôi - một đoàn thất thố - đã đầu thai nhầm lúc
sao mờ....Thế cho nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ nói lên và
chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu
ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là của cáí thế giới âu sầu đây nữa....
Để cho muôn ngàn ký ức chất chồng lên ký ức chúng ta, cái ký ức bi thương, cái
ký ức đơn nghèo đã lượm thâu bằng những giác quan trần tục."
Bản tuyên ngôn mang sẵn rồi triệu chứng bất hạnh của những
tâm hồn khát khao ảo tưởng lạc loài trong sóng gió của lịch sử. Sự thật là bản
tuyên ngôn chưa được phổ biến, trường phái Dạ Đài đã tan rã vì chiến tranh bùng
nổ ở Hà thành, bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trần Dần nghe tiếng
gọi của tổ quốc, tình nguyện theo dân quân kháng chiến, nhưng sự đời đưa đẩy phải gia nhập đảng cộng sản toàn trị. Sống với
chiến tranh, luôn luôn học tập nghị quyết của đảng, hằng ngày tự kiểm thảo và
kiểm thảo lẫn nhau từng lời từng bước:
"Ban sớm tôi họp. Ban trưa tôi viết chỉ thị. Gặp
anh gặp chị để đả thông nhau. Buổi chiều tôi họp phổ biến..Xẩm tối tôi còn họp...Cuối
tuần tôi tự phê bình, chưa tranh thủ lắm...Kém đi sâu! Cái lỗi ngàn lần không sửa
nổi..." (Trần Dần ghi chú).
Trở nên một đảng viên, nằm trong đội sáng tác văn nghệ,
tuyên huấn của quân đội, đó là bước ngoặt mở đầu những năm tháng ngậm ngùi tù túng, mai một
tài năng, “người bay không có chân trời!”.
Mai một
nhà thơ? Với tuyển tập: "TRẦN DẦN: THƠ", Trần Dần chứng tỏ luôn luôn
thật là một nhà thơ, như Hàn Mạc Tử, như Bùi Giáng,
chứ không phải vì là hội viên của hội nhà văn, có thơ tuyên dương trên đài phát
thanh, hay có thơ đăng trên báo của đảng. Làm dân quân ở chiến khu, rập khuôn theo chỉ thị của bề trên, làm thơ viết
văn tuyên truyền cổ vũ, vào năm 1955 với hòa bình và tiếp quản Hà nội, Trần Dần
đã tưởng tìm lại được chân trời của thời xưa, có thân hữu văn thơ, có tự do bay
bổng sáng tác. Nhưng sự việc đầu tiên là Trần Dần bị chi bộ đảng quản thúc, kiềm
tỏa cô lập hàng tháng để biết từ bỏ ý định chung sống với một thiếu nữ tiểu tư
sản, gia đình đã di tản vô nam. Trần Dần nhất định sống theo ý muốn, xây dựng một
tiểu gia đình trong khó khăn và nghèo khổ. "Nhất
định thắng"(1956), bài thơ dầu tiên viết sau chín năm chiến khu, bài
thơ leo thang mãnh liệt tràn trề ray rứt tả hết cái thời éo le, dù có đoạn cuối
dài vớt vát nhưng không che nổi cái nhìn thâm sâu phản bác lạc quan chủ nghĩa
vô thực của đảng và của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa bài thơ đăng trên
Báo Nhân Văn và Trần Dần cùng lúc công khai phê phán thơ Tố Hữu, nguồn thơ
chính thống của đảng. Trần Dần bị liệt vào phe phản động Nhân Văn chống đối đảng
và nhà nước xã hội chủ nghĩa, loại trừ ra khỏi đảng, khỏi hội nhà văn, bị bỏ
vào tù và đầy đi trại lao động cải tạo.
Nhưng dù phải vật lộn với cuộc sống và trong lao tù với "tứ khổ: 1-khổ lao động nặng 2-khổ đối
xử 3-khổ nhớ 4-khổ nắng mưa bất nhất" , Trần Dần ghi chú rằng ta vẫn
có : 1-khoái làm thơ 2-khoái thu tài liệu
3-khoái dự định viết 4-khoái nhìn nghe ngẫm nghĩ và hy vọng. Trong những
năm tháng đó 1956-1960, Trần Dần say mê tìm lại nguồn thơ, sáng tác thơ trữ
tình, đặc biệt những bài thơ hầm hập leo thang, như muốn nói hết những ước mơ
và ký ức của mình từ tuổi học trò đến thời lang thang hàng phố cô đơn và khao
khát tình thương. Nói hết như sợ sẽ không còn tâm can đối phó với sự đời và không
có dịp tiếp tục sống với nàng thơ :
Hãy để tôi hoàn thành
"Cổng tỉnh"! Óc nhé, chịu khó chịu đựng, gắng gỏi lên, một ít
ngày giờ! Sau đó, dây thép thần kinh có đứt thì cứ đứt tha hồ"
Sự đời không phụ lời cầu mong của Trần Dần, tập thơ Cổng tỉnh đã được
sáng tác và hoàn chỉnh ngay trong trại lao động cải tạo, đúng trước khi Trần Dần
vì lao công bại liệt được thả về.
Tập thơ Cổng Tỉnh, không dầy lắm, có thể nói là kiệt tác, cùng những
bài thơ khác trong những năm 1956-60, tràn trề leo thang từ ngữ và hình
tượng cho người đọc cảm nhận cái hăng say phải đã từng có khi Trần Dần hợp tác
biên soạn bản tuyên ngôn của Dạ Đài. Đó là thơ của tuổi trẻ, say đắm với hứa hẹn
của ngày mai và khát vọng một đất trời huyền hoặc nào xa lạ:
"Hãy thù ghét mọi ao tù nơi thân ta rữa mục, mọi thói quen nếp nghĩ mù
lòa. Hãy sống như những con tàu phải lòng muôn hải lý, mỗi ngày bỏ sau lưng
nghìn hải cảng mưa buồn".
Tất cả là tuyệt đối tin tưởng ở sự sâu xa tác động của lời thơ. Nếu có cô
đơn hay phiêu bồng lang thang một mình lẻ loi trong vũ trụ, thì cũng chính là để
với nàng thơ có tình thương và lãng mạn dùi dắt ôm ấp. Thật ngược lại với Bùi
Giáng. Bùi Giáng cũng có những bài thơ dài nhưng không leo thang, dù cũng để thi hứng tràn trề theo từ ngữ, vần điệu, theo
sự bay bổng của hình tượng, người đọc thường giữ lại những phiến bản (des
fragments), những đoạn hai ba câu thơ xuất thần huyền bí:
"Nhân danh thôn dã phố phường
Chúng tôi biết điệu
buông tuồng chịu chơi
Với thần thánh đất
tiên đời
Với thần mộng mị với
đời thần tiên"
Bùi Giáng làm thơ như hiền giả, tìm thấy thơ vì thơ sẵn ở mọi nơi, ở mọi phận
đời, ở ngay trong những bất tất của sự đời. Làm thơ tức là ngộ ra cái huyền
linh ở mọi con người, ở trong thiên nhiên vũ trụ:
"Xích Lô - đệm ấm giường êm
Giờ này anh kéo tôi
lên
Chiếc xe vô lượng thần
tiên đi về
Đưa nhau về phía bên
kia
Một trùng dương rộng
xẻ chia một trời".
Triết lý đối với Bùi Giáng trước hết là thấu hiểu tiền đề (the a-priori) cận
đại, lý tính con người gồm có : Khoa học, Triết lý và Nghệ thuật. Khái niệm
khoa học tất nhiên rất thông thường. Triết lý là suy luận xa gần tới cái Đạo của
nhân gian và vũ trụ. Đối với Bùi Giáng, nghệ thuật cũng là Thơ, trong lý tính
con người nói tới nghệ thuật cũng là sự cảm nhận Thơ, mà Thơ không khác gì sự sống,
mênh mang mọi nơi, ngay như trong vô cùng vũ trụ có sự sống và chết của những
vì sao. Chỉ một hình dáng, một tiếng ca, là tất cả có thể tràn gập ý thơ, ngõ cụt
này đây trong cảm thức Thơ của chúng ta cũng sán lạn dưới "mặt trời muôn thuở mới":
Em thêu dệt đời hồng,
anh nói ít lời hoa
Em ca lừng cho bốn phía sinh ca
Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới.
Đối với
Trần Dần thì trái lại, thơ kết tạo từ bản ngã. Thơ của Trần Dần hăng say duy
ngã; cái thằng tôi ước ao, thăng trầm tìm ý nghĩa của bản thân sống trong một
thế giới vô nghĩa, có thơ trong tâm hồn như một sứ mệnh thăng hoa bản ngã, và cũng
có thể đưa những người thân cùng đi một chuyến tàu tới bờ bên kia lý tưởng. Đó
là cứu cánh của tượng trưng chủ nghĩa trường phái Dạ Đài, tuy nhiên ở Trần Dần
một phần nữa cũng là sự phản kháng tự nhiên đối với xã hội đang cầm tù thi
nhân, một xã hội duy vật, vô thần và bình dân túy:
Tôi không có đủ tình yêu
yêu cái trái đất lục đục thế này
Lạy tất cả! Tha cho tôi
cả những lỗi tôi làm
cả những lỗi người khác làm
Tha cho tôi. Tôi chưa đánh vỡ gì cả
Tôi chỉ đánh vỡ của mọi người một mảnh sống:
đời tôi
Qua những
lời van xin đó, chúng ta có thể nghe ra sự ngang nhiên đòi quyền sống; cuộc đời
là của riêng bản ngã, chứ không phải thuộc về cuộc sống mà xã hội khắt khe xếp
đặt, mà tôi không biết làm sao bảo quản.
Năm
1960 sau mấy tháng lao động học tập cải tạo, Trần Dần bị suy dinh dưỡng bị trật
cột sống, đảng đành phải thả về. Từ đó, nhà thơ sống cô lập, ngày ngày ngồi in
bóng mình trên một mảnh tường. Trần Dần tiếp tục lặng lẽ làm thơ, nhưng không
còn leo thang và hăng say tìm chữ, ý niệm về thơ là sự chán chường trước sự thật
hiển nhiên rằng thơ sau cùng hết không có tác động gì có thể cứu vãn con người.
Người ta chìm đắm trong thế giới không thơ, nhưng mỗi ngày người ta vẫn đọc
trên báo chí những bài thơ và nghe thanh loa đường phố ngâm vang những câu thơ.
Từ 1963 đến khi bắt đầu viết Sổ thơ và Sổ
bụi (1973), thơ của Trần Dần hầu như tất cả là "phản thơ", thơ chơi chữ, thơ không lời (thơ hình thức, thơ cấu
trúc, thơ ý niệm theo những lời bàn sau của một vài người). Rồi kịch thơ không
phải là thơ. Tôi nghĩ có lẽ tất cả để phản
thơ, nhạo nàng thơ và nhạo thi nhân chính mình, hay nữa như Đặng Đình Ân viết:
"JỜ JOẠCX" (thơ tiểu thuyết
1963) là lời nhạo báng thẳng thừng tất cả cái gì được gọi là trí thức (hay nhà
thơ) dỏm đương thời
mọi người cười hồn hột đồ đạc chẳng chú í
lịc jịc cơn mưa to bình minh tiến trình.
juy có vài người không thông minh để í nhiều
tới í ngiax triết lí thẩm mĩ địa lí sử kí li tay-chân li của cái tát hữu ix bé
tix.(Đặng
Đình Ân trích từ jờ joạcx, mọi người chỉ những nhà trí thức trong tiểu thuyết).
Bùi
Giáng vào đầu thập kỷ 1960 chìm đắm trong triết học, phát hành hai tập khảo luận:
"Tư tưởng hiện đại" (1962) và "Heidegger và tư tưởng hiện đại"(1963),
và đăng trên báo không những thơ mà nhiều bài triết luận. Trong khi xã hội ở
Sài thành thời đó chỉ lo vui lo sống, chỉ muốn làm sao quên sự rối ren bất tất
chính trị và thời cuộc, Bùi Giáng dần dần phải tự thấy cô đơn, ăn nói ở chỗ
không người, đi tìm niềm vui duy nhất là lang thang chân đất các chùa các ngõ của
Sài thành, và sự an bình với những ly rượu đế uống nợ ở góc chợ. Bùi Giáng luôn
luôn tự nói chuyện với chinh minh bằng những câu thơ. Có những câu thơ xuất thần
ẩn dụ huyền bí đạo người và thiên nhiên vũ trụ, nhưng không thể nói là những
bài thơ hay được viết khi nửa say nửa tỉnh. Nhừng bài thơ có thể không khác gì
với "Mùa sạch" hay "Jờ Joạcx"
của Trần Dần, những bài thơ ly khai nàng thơ, nhưng Bùi Giáng không khắc
khoải mà vẫn vấn vương vần lục bát bình dân của thơ việt.
Trần Dần
hăng say tham vọng, khí phách phản kháng, nhạo đời, nhạo nàng thơ và cả chính
mình. Rồi sau cùng đến lúc (1973) tự nhủ:
Tôi - một người chuyên thích
những gió lên
những cánh buồm bát ngát
bây giờ tôi nằm liệt nửa người
bất động như sắp kề miệng hố
trước cửa nhà tôi
gió thối dạt dìu
Nhà thơ
bắt đầu tự viết những "Sổ bụi",
"le journal sauvage" hay "nhật ký anti-tự-sự" theo định
nghĩa của nhà thơ. Những "trang nhật ký anti-tự-sự" vượt khỏi mọi giới
hạn của tự sự, và như thế theo như Trần Trọng Vũ luận bàn, đó là những trang
Văn Học. Những câu văn, những câu thơ của Trần Dần, con người lưu đầy bao nhiêu
năm nay trở về ngôi nhà cũ, ngôi nhà của Chữ
và Nghĩa. Trong ngôi nhà cũ, có những trang viết thừa, có bụi đóng dầy mọi
nơi:
(Ô! này đây) thơ tôi ba mươi năm đóng
chai... Nó có thể chờ.
Và bụi
được quét tung lên, những chữ ghép nghĩa được
nhặt ghi thành Sổ bụi. Sổ của những
phiến bản thơ, những câu thơ, những bài
thơ mini:
Thi pháp bài thơ, tôi muốn đoạn tuyệt.
Nghiêng về thi pháp Câu thơ - cửa sổ hé
vào vĩnh viễn.
Mà nhặt
ghi như ghi nhật ký tự-sự nhưng không phải là tự sự (anti-tự-sự), vì người xưng "Tôi" hạ bút ghi không chắc gì
là Trần Dần mà cũng thể như Trần Trọng Vũ nhận xét, là cái bóng của nhà thơ Trần
Dần. Những cái bóng mà người lưu đầy trở về nhà cũ thường nhìn thấy ở từng góc
nhà, ở trên những mảnh tường không....., những cái bóng của chính mình, thực
hơn chính mình vì mang theo ký ức, hay tình cảm nổi dậy từ một chiếc ảnh còn
xót lại trên cái bàn không...Sổ bụi có thể là sự ghi nhận một cuộc đối thoại của
nhà thơ với một khách thơ, cái bóng mình; tất cả tạo thành một tác phẩm văn học,
kiệt tác với một đề tài duy nhất bản ngã,
"cái thằng Tôi". Tôi nghĩ người đọc nên thu xếp cuộc đối thoại đó,
gom nhặt không theo thời gian mà theo nhận thức của mình để
thành những đoạn có đề tài minh bạch, như một tập với nhan đề: "Cho Tôi", trong "cái vô lý mà tôi
không thể hiểu, cái không thể mà tôi khao khát, những tình thể mà tôi không thấy
lối ra" (Trần Trọng Vũ), hay một tập: "Chân trời không người bay", một khoảng trời bên kia, xa cái trời
đất tù túng này mà ở đó ai ai cũng đều vất vưởng không hồn...Riêng tôi cũng đã còn
từng nghĩ, thu tuyển một ít câu thơ, một it thơ
mini để tạo dựng một màn kịch phản nghệ thuật Samuel Beckett: "Ngõ Đợi", nhà thơ đối thoại với bóng mình,
chờ đợi không gì hết trong một thế giới trống rỗng với những câu nói vô nghĩa,
hay có nghĩa thì chỉ loé hiện để tan biến vào hư không.
Tám năm
trước khi lìa cõi đời, Trần Dần không viết gì nữa. Tổng kết, Trần Dần đã để lại
cho văn học Việt nam cả một kho tàng Chữ và Nghĩa, cô đọng sắc bén; xã hội đã hắt
hủi nhà thơ, lời thơ của Trần Dần đơn côi thống thiết, quyết liệt khát khao
chân trời xa, đập phá những tù túng bỏ lại sau những nhà ga khói xám, những góc
phố đen, những bến nước mưa buồn... Nếu có ai hỏi được Trần Dần ở trên kia: Ở trần gian người đã có gì? chắc nhà thơ sẽ trả lời: Tôi lạc hành tinh!
Song
song với Trần Dần, Bùi Giáng an nhiên tự do giữa cuộc đời, không một dây tình
hay một pháp lý nào kìm giữ. Bùi Giáng có một minh triết, thông diễn giải hội
nhập tư tưởng của trời đất. Gần cuối đời vẫn làm thơ, làm thơ diễn giải dịch và
đáp ứng hơn trăm bài hán tự hài cú, mấy chục bài thơ nguyên văn tiếng anh, tiếng
pháp của Ngô Văn Tao (5). Thơ của Bùi Giáng là thơ của tình đời, nhân sinh trong huyền
bí linh thiêng vũ trụ. Nếu có ai còn hỏi được Bùi Giáng: Hỏi rằng (trần gian) người ở nơi đâu? Bùi Giáng sẽ giản dị trả lời,
đơn sơ nhưng bất tận: Thưa rằng tôi ở rất
lâu quê nhà!
Ngày 4
tháng 8 năm 2017
Ngô Văn Tao
(1) Trần Dần: THƠ Tuyển tập thơ - Nhà xuất bản Đà Nẵng 2007
(492 trang)
(2) Bùi Giáng Văn và
Thơ Ngô Văn Tao tuyển trích Nhà xuất bản Văn Nghệ 2007
(3) Dạ Đài - Bản
tuyên ngôn tương trưng (1946)
Trần Dần - Trần Mai Châu - Vũ Hoàng Địch
(trang 53 trong Trần Dần: THƠ)
(4) Trân Trọng Vũ: Đau lòng sổ bụi...Những bức thư không gửi
(2003)
http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/TranDan/DauLongSoBuiTTVu.html
(5) Bùi Giáng- Ngô Văn Tao : Vào Chung Cục Thơ , Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn
Hồ Chí Minh năm 2004