Trịnh Công Sơn - Bob Dylan
Ngô văn Tao The Nature - 2006 Oil on canvas 60 X 80cm
Bob
Dylan born in 1941, rock’n’roll musician, author of
the famous theme song “Blowing in the
wind”, was a pop icon and wrongly assumed
to be the prophetic poet of his generation, the generation of flower people, of
Woodstock. Rocketed to superstardom in the early 1960, he was by 1965
overwhelmed and depleted. “'I was playing
a lot of songs I didn't want to play. I was singing words I didn't really want
to sing . . . It's very tiring having other people tell you how much they dig
you if you yourself don't dig you.'”, as Bob Dylan would later confess.
Trinh Công Son (1939-2001) was the musician-poet of a nation. He could be the elegy-song
writer of his generation, caught in the war - the Vietnam war 1960-1975,
fraticid and absurd without any humane purpose. But his creativity lasted for
his whole life. His rich and diverse achievements become part of the Vietnamese
nation’s cultural asset, as well as Nguyên Du’poetry in the heart of the
people.
Trịnh Công Sơn
Ca sĩ nổi danh vào những năm 1960, Joan Baez trong một dịp “đấu tranh” cho hòa
bình, qua Việt Nam (năm nào?) có dịp biết đến Trịnh Công Sơn nói:
“Trịnh
Công Sơn là “Bob Dylan” của Việt Nam ”
Cái truyền thuyết đó, thật hay không (?), để lại ấn tượng và được nhắc
nhở nhiều. Với mấy lời tản mạn sau, tôi nghĩ đem Trịnh Công Sơn so sánh với Bob
Dylan chính là phản bội Trịnh Công Sơn,
người nghệ sĩ đa tài của chúng ta.
I) Bob Dylan là ai?
Bob Dylan (1941-…) thua Trịnh Công Sơn (1939-2001) hai tuổi, cùng từng
nổi danh vào những năm 1960, hai nhân vật của tuổi trẻ “chỉ ước mong có hòa
bình, mang tặng những bông hoa của tình yêu” (the flower people). Chắc chỉ vì
thế mà Joan Baez đã nghĩ tới Trịnh Công Sơn và Bob Dylan.
Để biết về Bob Dylan, tôi trích dẫn dưới đây vài lời giới thiệu của
Jonah Lehrer (Imagine how creativity works – Publisher Houghton Mifflin
Harcourt- Copyright 2012 by John Lehrer).
Từ tỉnh lỵ Minnesota, Bob
Dylan nổi danh rầm rộ vào đầu thập niên 1960. Nhưng đến năm 1965, đã chán chường
và hụt hẫng (overwhelmed and depleted).
Vì những ngày tháng được dẫn
trình, diễn hát khắp nơi, từ những trường cao học tỉnh lỵ đến nhũng nhà hát của
thành phố…Luôn luôn đối diện với phóng viên nhà báo, đáp cung những câu hỏi không
đâu: “Anh hát về sự thật, nhưng sự thật gì?”,“Tại sao trên bìa album của anh lại có ảnh
con Mèo?”….Cứ như thế, đến lúc Bob Dylan
phải nổi nóng và trả lời, “tôi không có gì để nói!”, “tôi viết là viết những
lời đó, không mang đến một thông điệp nào!”, “hãy xin đừng hỏi những gì mà tôi
không biết”…
Dylan không thoát khỏi đám
đông bình dân xu thời háo hức, tò mò. Dylan cố tìm trốn lại chính mình. Anh mang theo máy chữ, cố viết ra
một cái gì giữa đám đông, giữa sự rộn ràng của những buổi ra mắt trình diễn.
Nhưng thường chỉ có thế là những chữ vô dụng để anh xé vụn vứt vào đống rác. Dẫu
rằng anh vẫn phải có cái bản năng sáng
tác nghệ thuật, nhưng anh không vượt nổi
sự ngăn cản chán chường đó. Những điệu nhạc của anh cũng trở nên dần nhạt nhẽo
mất linh hồn. Ngay cả những tối anh lên hát cho quần chúng, anh cũng không còn
hứng thú, trình diễn những bản nhạc của anh mà như những bài xa lạ của một ai
khác.
Nhưng rồi cũng phải đến
lúc, nhận ra sự phi lý, hời hợt của sự đời, tài nghệ gì mà anh thật có như đã bị
tiêu hao trong sóng cuốn của thị trường thời thượng. Vào tháng 5 năm 1965, anh
đã tự nghĩ như anh thú nhận về sau rằng: “Tôi thật
chán chường hụt hẫng. Tôi trình diễn những bài ca mà tôi không muốn….những lời
ca không đến từ trái tim tôi. Thật là đắng cay vật vã khi anh phải làm những gì
mà người ta thôi thúc chờ đợi ở anh khi chính anh không thể tự mình thôi thúc…”
Những câu trên của Lehrer theo tôi được biết, hoàn toàn đúng sự thật.
Bob Dylan dù sao cũng là nghệ sĩ tài hoa, tiền phong trong nhạc rock’n’roll, mang
điện tử vào dàn nhạc, đặc biệt phổ biến cây đàn guitar điện. Tuy nhiên, Bob
Dylan từng suy tư: “Roch’n’roll thật chưa
đủ! Có khúc nhạc lôi cuốn, có nhịp điệu làm say mê…, nhưng lời ca quá hời hợt,
không phản ảnh gì thực tế. Tôi nghĩ đến viết folk music (nhạc dân gian), tôi thật muốn định thần suy tư; lời và nhạc điệu
phải nói lên được sự tuyệt vọng, sự buồn thảm, phải huy hoàng toát lên
những linh cảm siêu thoát, những cảm tình thật sâu lắng”. Nhưng phải nói
Bob Dylan hầu như không bao giờ đạt được điều anh muốn. Dù có cả một hậu trường
thông tin tài chính thị trường do thái, người ta muốn đưa anh, người nhạc sĩ do
thái, lên như một nhân vật biết nói ra tâm tư triển vọng của thời đại. Bob
Dylan phải gào lên với tất cả sự khắc khoải của trí tuệ: “Tôi không có gì để nói”, “Tôi không phải là hiển linh trí tuệ, nói lên
những câu sấm” (Please! I am not a prophet. I did not prophecy) .
Tuy nhiên phải nhận định rằng Bob
Dylan đã sáng tác bài “Blowing in the
wind”, đến bây giờ vẫn luôn được nhắc nhở, có chiều sâu nhân văn thi ca.
Chính bài này và có lẽ chỉ bài này đã đưa anh lên thượng tầng danh vọng, nhất
là trong “Ngày hội Woodstock” (1969),
của 500.000 thanh niên đấu tranh cho hòa bình (chống chiến tranh Việt Nam), đấu
tranh cho tình yêu (The flower people), bản nhạc đó với lời ca kêu gọi cho ngày
mai của tình người, đã vang dội và thầm thì vọng hát, như một bài ca tuyên
dương của ngày hội. Vào những năm 1960, ở nước Mỹ với phong trào đòi dân quyền
cho người da đen (MalcomX, the Panthers), với phong trào của thanh niên phản kháng
lệnh động viên nhập ngũ cho chiến tranh Việt nam và đấu tranh cho hòa bình, người
ta vô hình chung đưa Bob Dylan lên như là nhân vật lịch sử, tiền phong của thời
đại. Một vai trò không đúng sự thật đầy
mâu thuẫn, để Bob Dylan chỉ còn biết theo gót những thi nhân tiêu cực như Jack
Kerouac, Allen Ginsburg…chìm đắm vào LSD, công khai hút cần sa, một cách chứng
tỏ sự chống đối cái xã hội hời hợt thiếu tình người, cái xã hội cá nhân tư bản
nghi thức âu mỹ.
II) Trịnh Công Sơn
Bob Dylan là nhạc sĩ có tài của rock’n’ roll, cái tài trong nhạc điệu, trong kỹ thuật cho nhịp điệu vang dội lôi cuốn; chính cái tài năng kỹ thuật đó chi phối làm Bob Dylan không thể trở về suy tư với nội tâm. Trịnh Công Sơn trái lại là thi sĩ. Anh là nhạc sĩ của du ca (ballad). Với hình ảnh ngàn xưa của “kẻ rong ca”(le troubadour), những bài hát (độ 600 bài) của anh đều là lời thầm thì của thi nhân, nói ra những tình ý của chính mình với nhịp điệu của tâm hồn. Nếu cần phải giới thiệu Trịnh Công Sơn, cho một người Pháp chẳng hạn, tôi sẽ nói: “nghe Trịnh Công Sơn, thì gần như ta lắng nghe Jean Ferrat hay Léo Ferré phổ nhạc thơ của
Đem lời ca của
Trịnh Công Sơn sánh với những câu thơ của Aragon, văn sĩ và thi sĩ nổi danh của
nước Pháp, theo tôi nghĩ không có gì là
quá đáng, vì lời ca của Trịnh Công Sơn là thi ca đượm sự suy tư trên mong manh của tình yêu, trên cái phận làm người,
hơn nữa có chiều sâu đau khổ và lịch sử mà Aragon không có. Quan trọng hơn nữa
là ở Trịnh Công Sơn, những lời thơ triển khai thành lời ca với nhạc điệu hồn nhiên của chính nó. Trịnh Công Sơn,
nhạc sĩ, không phải là người tự cho mình sứ mệnh sáng lập một trường phái. Anh
là nghệ sĩ thả mình theo nhịp sống của dân tộc. Anh là nhạc sĩ, trưởng thành
trong dòng “ nhạc Tiền Chiến”, đến sau Đoàn Chuẩn Từ Linh, Nguyễn Văn Tý,
Văn Cao, Phạm Duy….Dòng nhạc có giá trị “khai
sáng” như “phong trào thơ mới”, mang
văn học Âu Tây vào đời sống của dân tộc Việt Nam chúng ta. Nhạc tiền chiến là
dòng nhạc thoát ly dòng nhạc ngũ cung cổ điển dân gian, có lẽ còn xa lạ, nhưng đến
với Trịnh Công Sơn , thì có thể nói nhạc điệu của anh đã thâm nhập thật vào tâm
hồn người Việt Nam, dù đôi khi có phảng phất giai điệu nước ngoài, như nhắc nhở
“Tristesse” cuả Chopin, tiếng than thở của “negros spirituals”. Chứng tỏ điều
đó, là ở những xóm làng hẻo lánh luôn luôn vang tiếng ai đâu đó ngâm nga một
vài câu ca của Trịnh Công Sơn; ngay trong những đám ma, người ta đã mang bài “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi…” của anh
để làm điệu kèn dân gian rùm beng truy điệu.
Là nghệ sĩ
trong cái nghĩa ngàn xưa, Trịnh Công Sơn cảm nhận với trái tim và tài nghệ thân
phận làm người, phù du của tình yêu, mất mát tang tóc của sinh mệnh, cái gian nan tìm đường sống mỗi ngày của từng
người, cùng sự khắc khoải ước vọng siêu thoát cái tù hãm của thể xác. Anh lại
càng lớn nữa, chính là anh đã sống hết
mình, như người dân việt nam chúng ta, dân
tộc nhược tiểu chìm đắm vào giai đoạn lịch sử tàn bạo tao loạn đầy mâu thuẫn
của thế giới. Anh đã hơn nửa cuộc đời mình sống trong chiến tranh, chiến tranh
chống thực dân, chiến tranh ý thức hệ, chiến
tranh tương tàn vô lý nghĩa…Làm một con người nhỏ bé giữa sóng bão, anh là “ve sầu của thế hệ anh” (như tiến sĩ triết
học Thái Thị Kim Lan đã từng nói).
Người ta lớn
chính là trong gian nan, yếu đuối kiên trì! Trịnh Công Sơn đã sống cả một thời
lẩn lút, lang thang để tránh bị động viên nhập ngũ vào quân đội của Việt Nam Cộng
Hòa (sự thật anh lẩn trốn được chính là nhờ những tướng sỹ, ngay như Nguyễn Cao
Kỳ, âm thầm giúp đỡ). Anh không bao giờ hát trước đám đông có đến ngàn người,
dù bài ca của anh vang dội khắp nơi ở miền Nam, lén lút nghe vọng ở miền Bắc;
đó cũng là điều may mắn, vì nếu không anh sẽ gián tiếp tạo ra một phong trào bình
dân nào đó, và như thế, trong một xã hội tao loạn chỉ có thù không có bạn, người
ta sợ những gì ngoài tầm tay của mình, anh có thể bị thủ tiêu như Nam Cao, như
Ngô Kha, như Nguyễn Văn Bông…Bài ca của Trịnh Công Sơn thầm thì lãng mạn yếu đuối,
điển hình cài gì đẹp nhất, cái gì sâu xa chân thật nhất của cả một dân tộc, người
dân Việt Nam chúng ta sống qua một giai đoạn lịch sử tàn bạo. Đó là những lời cầu
nguyện, thả hồn trong sự an phận rất thiền, rất bể dâu, một cái gì cao sang siêu thoát trong bất an đau khổ:
Xin cho tôi nguyên vẹn hình hài
xin cho đêm không có đạn bay
xin cho chim góp nhặt về trời
xin cho tôi làm kiếp của mây…
Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời, để khi nào trời đất yên vui
xin cho tôi, xin chỉ một ngày! (TCS)
Xin cho tôi nguyên vẹn hình hài
xin cho đêm không có đạn bay
xin cho chim góp nhặt về trời
xin cho tôi làm kiếp của mây…
Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời, để khi nào trời đất yên vui
xin cho tôi, xin chỉ một ngày! (TCS)
Nói đến kiên trì, thì nên nhắc lại một lần nữa Trịnh Công Sơn có một sự nghiệp vĩ đại, 600 bài hát sáng tác trải dài suốt cả cuộc đời. Nói hết và toàn diện, nói đến lý tính của con người, đến đau khổ tang tóc trong chiến tranh, đến ước vọng của tình yêu. Khi chính thể chính trị ở Việt nam sau 1975 có sự đổi mới và một phần nào cởi mở, Trịnh Công Sơn còn viết nhiều bài ca cho thiếu nhi và cho thanh niên tập đoàn, những bài ca nhẹ nhàng nhưng vẫn ẩn dụ một cái gì sâu xa tự do nhân bản. Chỉ mấy tháng trước bạo bệnh (1999?), anh còn viết bài “Tiến thoái lưỡng nan”, trên khắc khoải tình cảm lưỡng nan của một người bạn; nhưng chính nó là một kiệt tác nói ra được với triết lý thâm trầm, cái giao động bao quát nhân sinh tình yêu, tư tưởng của một con người! Sự đóng góp của Trịnh Công Sơn cho văn học Việt
21/08/2012 - Ngô Văn Tao
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ