Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Hai, 9 tháng 7, 2012

Ký hiệu học - R.Barthes

                   Quế Anh        oil pastel on paper  6/2011



Ký hiệu học và Nghệ thuật

I-  Roland Barthes (1915-1980), văn học gia suy luận với ký hiệu học (sémiologie), đã từng viết mấy hàng ý này:
“Trước biển cả mênh mông, nhưng nhìn lại chỉ một bãi biển, thì nào đây là những ký hiệu: những thân người đang nằm phơi dãi nắng, những biển ngữ, điệu kèn, nhà hàng chào đón khách, những chai côca rác rưởi…Ôi! Bao nhiêu là ký hiệu của chuyện đời.”
Chỉ một chút suy tư, ta phải nhận ra rằng xã hội âu mỹ cốt yếu là “tư sản nghi thức”  (société bourgeoise), thị trường lợi nhuận. Mỗi giờ mỗi phút trên truyền hình và ngay khắp nơi là những hình ảnh, biển ngữ thương hiệu. Nhưng luôn luôn những hình ảnh, biển ngữ thương hiệu không chỉ chiêu hàng cho một sản vật của thị trường, mà lại là  ký hiệu “tư sản nghi thức”,  hình ảnh của cái đồng hồ Gucci không chỉ là hình ảnh của chiếc đồng hồ mà là ký hiệu khêu gợi  sự hào nhoáng thời thượng phô trương.
Chính như thế, xã hội “tư sản nghi thức” mà chúng ta đang chìm đắm là một xã hội rập khuôn (formaté), với những ký hiệu tràn lan định thức (formuler) nhu cầu và ước mơ của quần chúng. Pop Art là sự thách đố phản kháng tự nhiên nghệ thuật. Nằm trong vòng cương tỏa “tư  sản nghi thức” đó, nghệ sĩ tự mỉa mai, tự nhạo báng cảm nhận sự bất lực của bản thân trước sự thô thiển bình dân túy, ý đồ thời thượng thô sơ máy móc của thị trường. Điển hình là những bức tranh của Andy Warhol (1928-1987) vẽ “Chai Coca Cola”, “Hộp súp Campbell”,  “Chân dung Marilyn Monroe”…Những bức tranh gián tiếp nói lên sự áp đảo của những ký hiệu, “tư sản nghi thức” thị trường lời nhuận, trên tiềm thức quần chúng, tuy nhiên ta vẫn phải là ta thấy ra ở sự áp đảo đó cái hời hợt nông cạn của sự đời.

II-  Sự thật là thế giới hiện sinh của mỗi người triển khai với muôn vàn ký hiệu (ký hiệu học). Chỉ một miếng bánh madeleine nhỏ với tách trà nóng nhẹ nhàng là ký hiệu, là bản sao “định thức” (programmation), dẫn đưa Charles Swann ( nhân vật chính trong tiểu thuyết nổi danh của Marcel Proust), đi vào hành trình tâm tư tìm lại quá khứ (A la recherche du temps perdu)! Một bông hồng với ai đó sẽ mãi mãi là ký hiệu của “tình yêu chớm nở” vì một lần “người tình mai sau” của anh phải đi xa nhưng gửi lại cho anh một bông hồng mong manh nhỏ bé. Cả thế giới hiện sinh, vật chất hay tâm tư, là trang nhật ký vô tận của mỗi người chúng ta, với những ký hiệu nhắc nhở tư tưởng, cảm nghĩ, hay sự việc đã sống, chờ đợi, mong muốn….
Liên quan tới khoa học của “trí khôn nhân tạo” (intelligence artificielle) (hay của đầu óc vi tính, le cerveau des ordinateurs), những trí khôn nhân tạo thì không cần hiểu chỉ cần biết tính, bắt đầu với chỉ thị của những ký hiệu, những bản sao “định thức”(les cartes des premiers ordinateurs). Nhưng trí khôn nhân tạo không thể tự động tổng hợp những ký hiệu để đưa ra một một tác phẩm nghệ thuật, một bức tranh, một bản nhạc, một tiểu thuyết…Dù theo Darwin, trí khôn nhân tạo vẫn có thể tổng hợp để tự tạo ra một chương trình tiến triển theo một sự máy móc tối ưu nào ( tổng hợp một số tế bào để tạo ra một sự sống phù hợp ưu tiên, thích hợp nhất, ngắn gọn nhất trong bối cảnh). Nhưng trong sáng tác nghệ thuật không có đường rày tối ưu (de la recherche opérationnelle ), mà là sự sáng tạo vô căn cứ, “một sự siêu hình ở ngoài lĩnh vực của trí khôn nhân tạo” . Theo tôi nghĩ, chính vì những lý do đó, Roland Barthes nhận định ký hiệu học là thuộc về triết lý và nghệ thuật trong sự hiện thành lý tính của con người.

III- Mỗi một tác phẩm nghệ thuật là tổng hợp những ký hiệu. Một từ ngữ, một nét vẽ, một khúc nhạc , đều là những ký hiệu. Có những ký hiệu giản đơn như một chữ, như một vật. Có những ký hiệu kín đáo ẩn dụ : “Miếng bánh madeleine và chén trà nóng”, ký hiệu của sự hồi tưởng về qua khứ…Tôi cũng theo Roland Barthes để nghĩ rằng Pop Art, mà chúng ta biết, có giá trị không nhỏ, nhưng những ký hiệu mà chúng ta nhận ra trong Pop Art (như với A.Warhol), thì thường quá đơn sơ, và hay nhiều lần thô thiển nhắc lại. Nói một cách rõ ràng, với Pop Art, ta không thể nghĩ so sánh tới những danh họa Monet,  Picasso!
Giá trị vượt thời gian của tác phẩm nghệ thuật là ở trong tổng số những ký hiệu mà tác giả đặt ra cho công chúng. Cho ta suy tư, thức tỉnh, hồi ức, rung động…Có những ký hiệu đưa ta ôn lại những gì ta đã học, ta đã biết. Có những ký hiệu gợi ta hoài mong, ước mộng…Thước đo giá trị của văn nghệ là qua sự có hay không những khả năng đó.
Tuy nhiên, những ký hiệu của văn nghệ, hay đúng hơn của chính đời thường không phải là những phương trình toán học, những bản sao “định thức” vi tính, mà ý nghĩa định thức còn tùy ở từng người tiếp nhận. Chính với nhận xét đó, Wittgenstein nói ngôn ngữ là trò chơi ký hiệu. Một chữ nói ra, một từ nói ra không bao giờ có một ý nghĩa phổ quát. Roland Barthes nhận đinh, như một tỉ dụ, bi thảm kịch Hy lạp thượng cổ chính là thảm kịch của sự “bất đồng ngôn ngữ” ngay giữa những người thân, các nhân vật nói lên nhưng đối tượng như người điếc không nghe thông ra.

IV- Đoạn thơ sau đây của Trịnh Công Sơn (nằm trong lời ca của bản nhạc: Đóa Hoa Vô Thường):
Tìm trong vô thường, có đôi giòng kinh
 sấm bay rền vang
Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn
Tôi mời em về đêm gội mưa trong
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm
Trong vườn mưa tạnh tiếng nhạc hân hoan
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh
Cái tuyệt vời của đoạn thơ, là những ký hiệu dẫn đưa ta rung động và suy tư (sự vô thường của cuộc đời, sự trang trải dây duyên của tình yêu…), riêng tôi còn thầm nhận ra một bức tranh toàn diện, Eros vô cùng thanh lịch (Eros=tình dục). Như thế đấy, văn nghệ phải đa dạng ẩn dụ.
Xã hội mà chúng ta đang sống hiện đại là xã hội tư sản “nghi thức”, thị trường lợi nhuận. Văn nghệ “hậu hiện đại” thách đố xã hội đó, phủ nhận những nghi thức tầm thường tư hữu với những cương thường thích nghi kiểu cách thời thượng. Văn nghệ hậu hiện đại là sự đòi  lại cho quần chúng mỗi người cái quyền tạo dựng thế giới hiện sinh của chính mình và khẳng định chính ta là “chủ thể siêu thoát” trong cái phận ta làm người.
Những lời bàn về văn nghệ qua ký hiệu học của Roland Barthes phù hợp với tư tưởng hậu hiện đại. Sau hai cuộc chiến thế giới, với sự phá sản của các lý thuyết (đặc biệt của Marxit chủ nghĩa), với sự thống trị của khoa học kỹ thuật làm lu mờ giá trị của mọi hệ thống luận đề siêu hình, văn nghệ không còn là chuyện tự sự đại ngôn (les grands récits). Mọi tác phẩm nghệ thuật phải tiệm lời, như một bức tranh chính đáng của hội họa không lân la giảng giải. Mang đến những ký hiệu, những biểu tượng  kín đáo, gợi ý nửa lời, những ký hiệu nằm trong tác phẩm công chúng mỗi người tiếp nhận sẽ không bắt buộc là hoàn toàn theo cái ý của tác giả. Một tác phẩm nghệ thuật chính đáng sẽ tiển triển, diễn giải trong sự hiện thành của từng người trong công chúng. Tôi nghĩ tới kịch bản, người hùng sau bao nhiêu gian truân trở về ngôi nhà cũ. Ngôi nhà hoang phế, vắng vẻ, anh vừa đi vừa hát và dọn dẹp, bổng anh nhặt một bức ảnh. Ảnh của người mẹ, của người em hay của người yêu anh đã mất? Màn kịch từ từ hạ xuống, khi anh đứng khựng lại, rất lâu tay giơ bức ảnh trước mặt mình. Khán giả mỗi người chắc sẽ hồi cảm tùy bản thân như chính mình sống cuộc trở về!
Trong một tản văn ngắn, Roland Barthes đặt vấn đề: “Cái chết của tác giả” (La mort de l’auteur), nêu lên ý trên. “Cái chết của tác giả” có nghĩa là tác giả ẩn mình, không cần hiển hiện, không cần nhắc nhở quyền tư hữu tầm thường trong xã hội tư sản nghi thức, mà trái lại chấp nhận cái quyền giải cấu của công chúng mỗi người đối với tác phẩm văn nghệ của mình. Thật vậy, như khi ta nghĩ đến “Truyện Kiều”  của Nguyễn Du đó, ta đâu có nghĩ tới Nguyễn Du, một cá nhân với thân thế và sự nghiệp, mà có thể nói ta chỉ nghĩ như ta nghĩ đến kho tàng vô danh của những truyện cổ tích, của những ca dao, những ca dao mà ta mang ra luận giải “bói kiều”, mang ra tự nhủ hay răn đời.
Tác giả ẩn mình! Người nghệ sĩ sáng tác không tự cho mình một thái độ “giáo chủ”, cảm nhận sư đa dạng của nghệ thuật như của chuyện đời, mỗi tác phẩm càng giá trị bao nhiêu thì càng đa dạng. Chính khi công chúng tìm tự mình giải cấu tác phẩm, cũng là tự mình đi tìm lại hành trình sáng tác nghệ thuật, mang đến tác phẩm một chiều sâu, một sự rung động mà có lẽ chính người sáng tác đã  hồn nhiên cảm nhận chỉ trong tiềm thức. Hơn nữa, tôi có ý thức rằng sự đóng góp của công chúng dù có thể không dãi bày trên giấy trắng mực đen vẫn có một âm hưởng thầm kín nào đó làm tác phẩm chính đáng tồn tại với thời gian.




V- Hãy để những học giả trường quy, cặn kẽ mỗi khi bàn luận đến một tác phẩm đều nêu ra tên tuổi của tác giả , thân thế và sự nghiệp. Tôi không phủ nhận việc làm đó đóng góp cho lịch sử văn học (đặc biệt để có một cái nhìn toàn khối sự nghiệp của nghệ sĩ). Nhưng tác phẩm nghệ thuật thường vượt thời gian, vượt những bất  tất lệch lạc của lịch sử, những lắt léo tức thời của xã hội. Những thành kiến tự nhiên có khi nêu ra về thân thế, về lập trường xã hội hay chính trị của tác giả, cùng xu hướng giai cấp, có ích gì cho công chúng nếu không chỉ làm công chúng mất cái hồn nhiên tìm thẳng đến tác phẩm như một phần đời của chính mình. Một sự kiện vô cùng mông lung; tìm đến cái đẹp, cái nên thơ, cái khát khao, ngay cả sự đau khổ thăng hoa của đời người, hay những mối tình với sự phù du và mất mát….
Cho nên mỗi khi ta phản biện phê bình hay thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, thì ta hãy cùng nhau giải cấu. Chúng ta hãy “mang tác giả ra tế thần”, chúng ta công chúng mỗi người tự lên ngôi đóng góp giải cấu như “một chủ thể siêu thoát”. (Theo kết luận của bài tản văn “La mort de l’auteur “ - Roland Barthes)

Tháng 7/2912
Ngô Văn Tao

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ