Bóng Ma cua Marx II
Quế Anh Acrylic on canvas 40x50 cm
Những bóng ma của Marx II
Trong năm 2011, nhật báo thời sự văn học và
chính trị Le Monde (Paris-France)
xuât bản đặc san “Hors Série-Le Monde: Karl
Marx”. Tuy chỉ là một đặc san hơn một trăm trang giấy, nhưng xác định một
cái nhìn tổng quát và rât hiện đại, lược
trình cuộc đời của Karl Marx (1818-1883), trích lược nguyên văn những ý
tưởng cốt yếu duy vật khoa học lịch sử biện chứng và chủ động cách mạng xã hội
cộng sản của K.Marx. Đặc biệt nhất cùng với những lời phản biện và thảo luận của Jean
Jaurès (1859-1914), lãnh tụ công đoàn và đảng xã hội Pháp (parti socialiste), của
François Holland, ứng cử viên sáng giá của đảng xã hội cho cuộc bầu cử tổng thống
Pháp năm 2012, cùng những lời bàn của nhiều tư tưởng, triết gia nhân văn xã hội
như Louis Althuser (1918-1990), Jacques Derrida (1930-2004), Cornelius
Castoriadis (1922-1997)……Những tư tưởng, triết gia đã chìm đắm trong những xã luận của Marx,
nhưng phản biện thích ứng sao trong sự
hiện thành lịch sử thế giới hiện đại.
Bài tản mạn dưới đây của tôi là những lời
riêng tư “thông diễn giải” qua đặc san này.
“Lao động vô sản thế giới hãy đoàn kết!”.
Cho một cuộc cách mạng không biên giới, phá vỡ ách thống trị tàn bạo hút máu của
thực dân tư bản thuộc địa, đập tan chế độ tư bản tha hóa sức lao động của con người. Thanh niên vô sản lao động mồ
hôi nước mắt, đặc biệt như ở Việt Nam còn lầm than nhục nhằn với thực dân đế quốc
Pháp, tất nhiên rung động trước lời kêu gọi đó, lời kêu gọi của Đệ Tam Quốc Tế
(đảng cộng sản quốc tế chủ nghĩa Marxit-Leninit-Stalinit circa 1917-1950), của những
đảng cộng sản thế giới. Lời kêu gọi với lời hứa hẹn một ngày mai sán lạng, ngày
mai của xã hội cộng sản, “không một ai bị
trói buộc lao động, mọi người đều hoạt động đóng góp sản xuât theo sở thích; xã
hội sẽ tự động phân phối sự thu hoặc của mọi người để cho ta mỗi người có thể
hôm nay làm việc này ngày mai làm việc khác, đi săn buổi sáng, đi câu buổi
trưa, chăn nuôi buổi chiều, tối về sau bữa
cơm nhàn rỗi ngồi bàn luận chuyện trời đất, không một ai bắt buộc phải làm thợ
săn, ngư dân, mục đồng hay nhà văn cạo giấy.” (K.Marx – (Tư tưởng lý thuyết
của dân Đức) Idéologie Allemande , Edit. Gallimard 1994, page 318-321)
Lời
kêu gọi cùng cái ngày mai sán lạng không tưởng đó vang vọng đến từ K.Marx, tư
tưởng gia của Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản Đảng ( với Engels là tác giả bản Tuyên
ngôn “Le manifeste du communisme – Marx & Engels, 1848” ). Để chứng thực
cho cuộc cách mạng hoàn vũ cộng sản chủ nghĩa tương lai, K.Marx tận tụy cả đời
tìm đặt ra lý thuyết cơ bản xã hội và nhân sinh dẫn dắt tầng lớp lao động vô sản
của thế giới tranh đấu thoát khỏi hố thẳm đen tối của chế độ chính trị kinh tế
tư bản.
K.Marx
trước hết là triết gia, đã từng là “thanh niên Hegel-ian” (Les jeunes
Hegeliens), theo lý thuyết khoa học biện chứng của Hegel nhưng không chấp nhận
khía cạnh duy tâm trong tư tưởng của Hegel, trọng thị sự hiện thành của con người
với lý tính siêu thoát, có tôn giáo, có hoài bão nghệ thuật. Quan niệm nhân
sinh của K.Marx chủ yếu là duy vật. Con người có tư duy, bản chất trước hết là
con người của xã hội, của đời sống cộng đồng. Sự hiện thành của con người là hiện
thành trong điều kiện vật chất, lao động để giải đáp những nhu cầu vật chất
sinh lý tồn tại, hiện thành trong khuôn khổ tập quán và hệ thống trật tự của xã
hội mình. Chính tôn giáo thịnh hành cũng chỉ là một hệ thống điều chỉnh nếp sống
của mọi người, cho ta cái cảm giác bình đẳng thân ái trong xã hội (ai ai cũng
là con chiên trước Thượng Đế). Tuy nhiên, xã hội của con người luôn luôn tiềm ẩn
những mâu thuẫn, những lệch lạc bất tất, người hại người, người bóc lột người.
Nên K.Marx nói lên tiêu chỉ nổi tiếng: “triết
gia xưa nay chỉ lo diễn giải thế giới, nhưng vấn đề của chúng ta là phải luôn
luôn cải thiện xã hội mình”.
Chính
tiêu chỉ này đã ám ảnh nhiều nghệ sĩ và tư tưởng gia thế giới vào nửa đầu thế kỷ
thứ hai mươi khi theo K.Marx còn tin tưởng ở lý thuyết có sức lôi cuốn mang
công lý tới cho xã hội. K.Marx, trong thời ông, vào nửa cuối thế kỷ thứ mười
chín, thì nhận ra chế độ tư bản, phát triển kỹ nghệ, tiềm ẩn lệch lạc, tha hóa
bản chất con người. Lý thuyết của K.Marx là vạch ra ở những xí nghiệp lan tràn,
người công nhân chỉ còn là một phần trong hệ thống cơ giới sản xuất, sự lao động
của họ bị tha hóa mất bản chất nhân
tính ( tư liệu sản suất có lợi gì trực tiếp
cho bản thân, cho người quen?), chỉ còn là một động cơ với giá trị thương mại,
thực tại vật chất mang lại lợi nhuận
(la plus-value) cho chủ xí nghiệp. Và ngay cả những người tư bản, những ông chủ
của cơ sở sản xuất, cũng tha hóa, họ
cốt yếu bận tâm duy nhất một điều là tìm lợi nhuận, sản xuất thật nhiều hàng
hóa để tung bán ra trong thị trường. Một chế độ tha hóa con người, tiềm ẩn mâu
thuẫn giữa công nhân và tư bản, mâu thuẫn ngay trong nội bộ tầng lớp tư bản đưa
đến phá giá thị trường với sự sản xuất tham lam quá độ. Chế độ tư bản rồi đây bắt
buộc phải suy thoái. Giai cấp công nhân vô sản càng ngày càng đông, càng bị bóc
lột sẽ là sức mạnh để cách mạng cải tổ cái chế độ xã hội hủ lậu này. Giai cấp
công nhân vô sản lớn mạnh sẽ đứng lên, công cộng hóa mọi cơ sở sản xuất, tổ chức
lại xã hội sao cho chúng ta tới ước mơ
lãng mạn, “một xã hội mà mọi người sẽ
lao động đóng góp tùy theo bản năng, tiếp thu đầy đủ cho nhu cầu vật chất tất yếu
của mình”.
Đệ nhất quốc tế cộng sản đảng, mà
Marx-Engels viết bản tuyên ngôn, chính là đảng muốn cùng giai cấp lao động vô sản
đảm nhận sứ mạng. Một cuộc cách mạng với sự hiện thành của giai cấp lao động vô
sản đa số trong quần chúng và chính tầng lớp tư bản tự nó cùng chế độ của họ tiềm
ẩn sự suy thoái. Tuy nhiên, K.Marx thừa biết sự lệch lạc bất tất trong đời sống,
nên K.Marx nhắc nhở praxis, hành động
và trưởng thành thực tiễn mà chúng ta phải có trong cách mạng để thích ứng với
hiện tượng xã hội tức thời. K.Marx nhân đó cũng biết khó mà có thể quy định xã
hội cộng sản tổ chức sao để cho chúng ta đạt tới ước mơ lãng mạn. Tổ chức sao cái xã hội cộng sản của ngày mai? K. Marx
chỉ có thể mơ hồ nuối tiếc và nhắc tới Công
Xã Paris (1871), cách mạng tồn tại không đầy hai tháng mà bị tiêu diệt ngay
trong máu lửa, “một công xã có hội đồng
nhân dân, được toàn dân chọn lọc nhưng
có thể bị quần chúng sa thải, để tổ chức công xã, vừa lập pháp và vừa hành
chính…Chức vụ công an là chức vụ phi chính trị, trách nhiệm duy nhất trước hội
đồng nhân dân…Tât cả những ai trong hội đồng hay được trao trách nhiệm hành
chính nào sẽ được chọn lọc hữu hạn với
lương bổng như một công nhân lao động…”(K.Marx)
K.Marx
thừa biết con đường chính trị cách mạng cộng sản không là con đường cái được vạch
rõ ra cho xã hội. Hàng ngàn trang sách của K.Marx, xã hội học, kinh tế học,
nhân sinh lý thuyết, cốt yếu là những trang chính trị đấu tranh, với những quy
định hữu hạn (theo thuyết duy tâm của Hegel!!), tự nó có mâu thuẫn, có giá trị
chỉ tức thời, không tránh được những kẻ khác thi nhau diễn giải với những lập
trường đối nghịch, phản bội ngay cả chính ông; K.Marx đã từng thổ lộ với Engels
một câu nổi tiếng: “họ thi nhau bình luận;
nhưng tôi biết tôi không là marxit
“ (không phải là marxit trong sự diễn giải lý thuyết của mọi người- nvt).
Có lời
đàm luận nguyên văn sau đây của triết gia Cornelius Castoriadus (1922-1997),
năm 1975 trong đêm cùng phá sản của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản
Marxit-Leninit-Stalinit (với sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa ở những nước Đông
Âu):
“Chúng ta đang sống đây, sau bình minh hứa hẹn
để tới ngày chỉ đầy khó khăn nghi vấn! Những công đoàn ( của giai cấp công
nhân vô sản) khắp nơi trên thế giới trở
nên hành chánh quan liêu (bureaucratisé)
không một chút gì triển vọng đóng góp cho xã hội của con người ngày mai…Một hành
chánh quan liêu ngay ở những nước mệnh danh xã hội chủ nghĩa Maxit-Leninit,
mang chủ nghĩa Marxit ra làm bình phong cho những chính thể “giáo điều vụ giai
cấp lao động trên giấy tờ” nhưng thật sự tàn bạo ức hiếp và sự tha hóa con người
vẫn nguyên đó…Chủ nghĩa xã hội Marxit đã chết rồi, như một động cơ chính trị xã
hội không còn ý nghĩa gì bởi quá nhiều lý lẽ”.
“Tôi không là marxit!”, lời nói đó của
K.Marx như tiên đoán lý thuyết của ông sẽ tha hóa trong giòng lịch sử. Theo
C.Castoriadus, sự tha hóa tai hại nhất chính là các tư tưởng gia chính quy cộng
sản (những đảng viên) chỉ biết nghĩ theo K.Marx một cách giáo điều sơ cứng “biện chứng duy vật lịch sử”, từ cái
nhìn phản biện chế độ tư bản xưa của K.Marx đưa ra quan niệm sơ đồ chính trị,
kinh tế lịch sử như một hiện tượng khoa học vật chất trong sự hiện thành của
nó, phát triển theo những quy luật kỹ thuật khách quan. Chính quan niệm này coi
như là tuyệt đối chính xác, đưa đến sự hiện thành một đội ngũ lãnh đạo quan
liêu, tự nhận mình là chuyên gia bác học chính trị kinh tế xã hội, thực hành những
quy luật của xã hội, những quy luật tât yếu và duy nhất ôm mang chính nghĩa và
lẽ phải.. Một đội ngũ tự đại, tự kiêu, không còn nhân tính, phủ nhận sự hữu hạn
của chính mình, chính mình trong cái phận làm người. Một đội ngũ không chấp nhận
có thể nhầm lẫn, trở nên giả dối, giả dối với cả chính mình; chỉ biết giáo điều
không chấp nhận phản biện, trở nên độc tài tàn bạo (Staline, Pol Pot, “phong
trào quyển sách đỏ của Mao Trạch Đông”, “thảm họa cải cách ruộng đất và vụ án
nhân văn giai phẩm ở Việt Nam” ).
Những
hiện tượng lệch lạc bất tất đó, chính nó đã làm xã hội chủ nghĩa Đông Âu xụp đổ,
xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và ở Việt Nam phải thay hình đổi dạng, đổi mới nền
kinh tế lạc hậu sơ cứng “bao cấp xã hội
chủ nghĩa’’ ( phủ nhận sự tự do tối thiểu của con người, điều hòa nhu cầu
và tư liệu vật chất như mang nải chuối ra chợ bán, mang áo cũ ra mời mua) và
gia nhập nền kinh tế thị trường tự do tư bản, nhưng tiếc rằng dưới sự quản trị
của tập đoàn xã hội quan cũ bè phái hỏa đầu.
Sư
thật là “biện chứng pháp duy vật khoa học
lịch sử” của K.Marx, tự nó không có ý nghĩa! Lịch sử chuyển biến không phải
hoàn toàn qua những đòi hỏi kinh tế, qua những mâu thuẫn đấu tranh quyền lợi vật
chất. Nó cũng là sự chuyển biến qua những lệch lạc bất tất duy tâm, lý tính của con
người, chiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ ảo vọng tàn bạo dã man của tập
đoàn phát xit Hitler, sự xung đột ở Trung Đông hiện nay bắt nguồn một phần từ chủ nghĩa toàn thống Do Thái (le
fondamentalisme juif)….
Xã
luận đấu tranh chính trị của K.Marx, lý thuyết khoa học duy vật biện chứng Marxit,
đã viết ra trong tình trạng xã hội kinh tế của Âu Châu, với sự triển khai kỹ
nghệ hóa ở nửa cuối thế kỷ thứ 19. Hơn một thế kỷ sau, tình trạng hoàn toàn
thay đổi, kinh tế đột phá với khoa học kỹ thuật ngoài sự tiên đoán của K.Marx. Ở
Âu Mỹ, những nước tiền phong kỹ thuật, giai cấp lao động cũng theo đà trở nên
trung lưu tiểu tư sản (bourgeois!). Không còn lao động dây chuyền mồ hôi nước mắt
mà là công nhân kỹ thuật, là nhân viên dịch vụ, trọng thị quyền tư hữu (the
american dream!), như là bản chất ngàn xưa của con người. Trọng thị sự tự do
sáng tạo của mỗi người, dù có thể chỉ trong cái thế giới hiện sinh nhỏ bé của
riêng mình, cái tự do sáng tạo ngoài ra
chính là động cơ cho sự đột phá khoa học và kỹ thuật. Ở những nước tiền phong
đó, tư bản chủ nghĩa trở nên là lẽ sống, Ai cũng có sổ tiết kiệm, quỹ hưu bổng
đầu tư trong chứng khoán của những công ty kỹ nghệ hay tài chính. Giai cấp vô sản,
trong cái nghĩa Marxit, không còn là tập thể cốt yếu, nếu có, trong xã hội. Hiện
tượng đấu tranh giai cấp không còn có trong xã hội.
Lịch
sử không bao giờ vào chung cục! Luôn luôn có những xung đột ngay trong tình trạng
vĩ mô giữa người và người, bè phái tài phiệt nhũng loạn thế giới, tham ô chức
quyền (những lãnh tụ độc tài tàn bạo) đưa đến
nội loạn quốc gia, những lệch lạc bất tất nhân sinh của bản chất làm người
trong xã hội..…Hội đồng quốc tế (Organisation des Nations Unies) là một tiến bộ
văn minh, nhưng không sao xóa bỏ được sự chênh lệch giữa nước giàu và nghèo (những
nước nghèo vẫn là hậu cần để đóng góp tài nguyên, lao động hạ tầng). Hơn nữa
văn minh dân chủ tự do thương mại và tài chính kỹ thuật đến đâu vẫn tiềm tàng
mâu thuẫn, như sự khống chế của tập đoàn tài phiệt do thái, sự thành lập nước
do thái Israel cùng chủ nghĩa toàn thống do thái, gián tiếp làm bàn đạp để tuy
trì mỏ dầu ở Trung Đông, hợp với quyền lợi của những công ty tư bản Âu Mỹ. Sự
hưng thịnh bá quyền đó bắt buộc phải mang đến sự phản kháng, chủ nghĩa khủng bố với chủ nghĩa toàn thống hồi giáo (le terrorisme
et le fondamentalisme musulman). Sự phản kháng nhất định phải có, như Marx có
thể nhận định qua lý thuyết biện chứng pháp. Cũng như sự hưng thịnh giàu sang
tư liệu vât chất càng ngày càng phải tăng tiến (la surproduction commerciale) với
sự đột phá không ngừng của khoa học và kỹ thuật, mang theo nguy cơ thảm họa môi
trường (cùng những trái bom nguyên tử, trong nghĩa bóng và nghĩa đen lủng lẳng
trên đầu nhân loại), mang đến những thiên tai ngoài tầm dự đoán. Tất cả rồi đây
sẽ tan hoang, đưa nhân loại trở về thời tiền sử chăng?
Lý
thuyết Marxit, xã hội học và kinh tế luận,
không còn ý nghĩa tức thời. Thật ra càng ngày chúng ta càng nhận ra sự hữu hạn
của mọi lý thuyết nhân sinh xã hội; “hậu
hiện đại” và “hiện tượng học” là tư
duy của thời hiện đại, không chấp nhận “đại
ngôn tự sự lý thuyết” (la fin des grands récits théoriques). Nhưng giấc mơ lãng mạn của Marx vẫn còn đó;
dù cái xã hội hoàn mỹ “mọi người đóng góp theo bản năng và đồng đều hưởng thụ”
chỉ là một viễn cảnh không bao giờ tới. Xã hội chủ nghĩa Marxit đã viết lên những
trang sử, một thời hăng say lãng mạn một thời tàn bạo đen tối đẫm máu, và dưới một hình thức mơ hồ nào đó còn là giáo điều
ý thức hệ của hai ba quốc gia trên thế giới, nên vẫn phải là một lý thuyết cần diễn
giải hay đúng hơn giải cấu (J.Derrida),
Đặc biệt nhất, K.Marx là nhân vật điển
hình, triết gia tận tụi cả đời tìm những lý lẽ để tranh đấu cải thiện xã hội. Hoàn
thiện xã hội để không một tập đoàn tham ô nào lợi dụng người dân, để trong xã hội
giá trị con người là chính, sự bình đằng và sự tương hữu xã hội trong cộng đồng
nhân loại là cứu cánh. K.Marx sẽ luôn luôn là thần tượng nhắc nhở nhân loại phải
hòa đồng, chung sức cho loài người vượt
qua những thảm họa thiên tai (sự phá hoại môi trường), những lệch lạc bất tất của
lịch sử ( nguy cơ lệch lạc chính trị đưa đến nghèo nàn đói khát, nguy cơ chiến
tranh với những sự mù quáng bá quyền).
Tháng
4/2012
Ngô Văn Tao
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ