Trần Dần, the poet and the writer
Quế Anh 0il pastel on paper 12.2010
Những ngã tư và những cột đèn
Nếu tôi là nhà văn, chắc tôi sẽ viết một tiểu thuyết, để nói ra trong thế giới quan và nhân sinh quan của tôi những gì tôi đã sống. Đã sống trong nửa thế kỷ lịch sử sôi động của đất nước, xã hội đổi thay với những oan khiên, những tội ác, những ngậm ngùi, gia đình sơ tán, con người hoang mang chờ đợi, thế giới tiếp tục đến với chúng ta qua màn hình qua mạng tín học và tới tấp những trào lưu tư tưởng trái ngược và đổi thay.
Đã là nhà văn, tức là “cảm thức hồn nhiên nghệ thuật”(1), khắc khoải nhận ra sự thật không phải là sự thật mà là những bóng tối, những mâu thuẫn gian tà, nên tiểu thuyết của tôi bắt buộc phải là hư cấu vì làm sao vạch ra được trắng đen ẩn náu của sự việc dựa trên cảm thức trong trắng vô tư của tâm hồn.
Tiểu thuyết tôi là những hồi ức mông lung của quá khứ, là những linh cảm vô căn cứ việc gì sẽ tới ở ngày mai. Đời, nhân thế và thế sự là bộ phim chiếu trên màn ảnh không phẳng, méo mó những bóng hình. Nhưng dù méo mó vẫn là chuyện đời đa dạng, hai ba mặt trắng đen không lường. Những nhân vật hiển hiện với nét vẽ lập thể sâu đậm, nội tâm bất định của những con người sống trong một thời đại đầy mâu thuẫn. Kẻ phản cách mạng chỉ là kẻ phản bội chính mình, phản bội cái ước mơ lý tưởng mù quáng mà họ đã có. Người lập chiến công không phải là người hùng, người thất trận không phải là đã bại. Lão thành hiển vinh là nấp sau cái bình phong đạo đức bề ngoài, đóng cửa hưởng thụ cao sang danh vọng với cái số may đến tự trời.
Tất cả phải là “tân phái tiểu thuyết” (un roman nouveau = tiểu thuyết mới) với “phản-nhân-vật” (un antihéros). Phản-nhân-vật tự thấy bóng mình méo mó trên màn ảnh. Không chân-thực (in-authentique), nhìn đời ngạo nghễ và lệch lạc; và tiểu thuyết là những lời độc thoại hay ghi nhớ trên trang nhật ký, đàm luận không đâu nhưng rất đời cùng những nhân vật khác hư hư thực thực. Tuy nhiên có lẽ một phần nào chính là tôi, trí thức và tràn đầy ao ước, cuồng nộ yêu đương, tha thiết tình người. Không một ai quanh tôi là tận cùng tội lỗi, sa cơ bao nhiêu lại càng thêm thông cảm thương sót. Người đàn bà mà tôi yêu, đều rất đẹp rất mong manh với những nét nhăn của thời gian, những vết thương của sự đời, tôi ôm mang che chở nhưng sự thật lại là nàng đã biết mở hai cánh tay nâng đỡ tôi lạc lõng tuyệt vọng hay quá đầy đọa trong ham muốn dục vọng không đâu.
Đóng quyển truyện lại, người đọc phải sững sờ tự đặt lại rất nhiều câu hỏi về mình, về xã hội, về ngày mai. Tôi không có minh triết nào để thông báo, nhưng người đọc sẽ nhìn đời bông lơi, với con mắt trầm tư nghệ sĩ. Người đọc sẽ hoang mang không biết mình hy vọng gì, tuy rằng thâm tâm lại chứa chan nhựa sống tràn đầy hoài bão cho chính mình và cho mọi người xung quanh.
Ước muốn như vậy, tôi thật tiếc rằng không phải là nhà văn. Quyển “tân phái tiểu thuyết” đó có thể có hay không? Hay chỉ có cho trường phái sáng tạo người Pháp như Louis Ferdinand Celine, như Claude Simon hay như Alain Robbe-Grillet? Ở Việt Nam chúng ta đã có nhóm “Sáng Tạo”, cốt yếu là những văn nghệ sĩ Hà nội di tản vào Nam năm 1954, những văn nghệ sĩ theo trào lưu siêu thực và trường phái tân tiểu thuyết. Chính với trường phái tân tiểu thuyết, những nhà văn như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền….đã tìm ra sự hoang vu tâm lý và tư tưởng - một khía cạnh chính yếu của “phản nhân vật” để thổ lộ sự khắc khoải tâm lý của chính mính trước chiến tranh từ giải phóng sang nội chiến, trước những lập trường chính trị gian tà, trước những chủ nghĩa chính trị mù quáng! Đặc biệt, Thanh Tâm Tuyền, nổi danh là nhà thơ siêu thực, đã viết một tân phái tiểu thuyết “Một chủ nhật khác”. “Phản nhân vật”, thiếu tá Kiệt, sa đà tự hủy diệt như để được hồi sinh sống lại một đờì khác, trong một xã hội khác khi cái “tâm hồn anh mơ mơ mờ mờ linh cảm biết cái vũ trụ này, cái thế giới này từ Quảng Trị đến Cà Mâu tới thời kỳ thai nghén sẽ sụp đổ, sẽ thay biến để anh và những người bạn anh, những người thân và tất cả sẽ bị lôi cuốn trôi đi như những cành khô trong một ngày đê vỡ dâng tràn nước lũ”(2) (cái thời cuối năm 1974 dự báo mạt thế của Miền Nam Việt Nam cộng hòa, mà thiếu tá Kiệt là thiếu tá đồn trú ở Tây Nguyên).
Trong tháng 1-2011, cuối năm Canh Dần, hội Nhà Văn (Hà nội-Việt Nam) xuất bản quyển truyện :”Những ngã tư và những cột đèn”(3) nhà thơ Trần Dần viết ra trong những năm 1960-65. Văn học gia Lại Nguyên Ân nói đây là tiểu thuyết cách tân, kỹ thuật tiên tiến (báo Tuổi Trẻ, H.C.M ngày thứ sáu 7.1.2011). Tôi mạn tin chắc rằng Trần Dần, theo bộ đội kháng chiến từ 1946, năm 1954 cùng bộ đội tiếp quản Hà Nội như cán bộ văn học ký giả của bộ đội, đã tiếp thu được di sản văn học Pháp văn của những văn nghệ sĩ ở vùng tề nay di tản vào Nam (nhóm Sáng Tạo), nên có những tân phái tiểu thuyết Pháp văn để đọc. Tôi mạn nghĩ nữa là Trần Dần đã đọc khi đó quyển “Voyage au bout de la nuit” (Lữ hành tận cùng vào đêm), của Louis Ferdinand Celine, quyển tiểu thuyết nổi danh vào năm 1952, nhất là trong tranh luận của Hàn Lâm Viện Goncourt đã không trao giải năm đó cho L.F.Celine, có thành viên công khai rầm rộ từ chức phản đối.
Tiểu thuyết của Trần Dần có kỹ thuật của tân phái tiểu thuyết. Đọc Trần Dần, tôi nghĩ tới tác phẩm để đời của Celine, nhân vật chính Dưỡng trong Trần Dần đi vào cốt truyện với phong cách của “phản nhân vật” Bardamu trong Celine và truyện của Trần Dần cũng kết luận như truyện của Celine với một án mạng cùng một xác chết. Nhưng truyện của Trần Dần không phải là tân phái tiểu thuyết: “(Trần Dần)viết không phải là đổ hết bi kịch lên giấy,… viết với lý do là : để được sống!” (Nguyễn Vĩnh Nguyên- Sài Gòn Tiếp Thị Online).
Để được sống! Tôi không biết Nguyễn Vĩnh Nguyên định nói gì, nhưng tôi động nghĩ đến cuộc đời của nhà thơ Trần Dần(4). Trần Dần, mười chín tuổi lập nhóm văn nghệ sĩ Dạ Đài với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Đoàn Phú Tứ…với hoài bão cao siêu đem nghệ thuật thẳng vào đời. Năm 1946, Trần Dần gia nhập đoàn quân giải phóng và được tiếp nhập vào đảng cộng sản. Đảng viên của đảng cộng sản nhưng phản kháng hệ thống cách mạng xã hội chủ nghĩa, đòi quyền tự do sống, tự do tư tưởng, tự do sáng tác nghệ thuật. Dù bị cầm cố hàng tháng trong trụ sở đảng ủy, Trần Dần vẫn không theo chỉ thị của đảng, nhất quyết yêu và kết hôn với cô thiếu nữ tiểu tư sản (mười chín tuổi không di tản vào Nam theo gia đình mà ở lại với hy vọng mong manh giữ được cái quyền quản lý một hai căn nhà của gia đình), tiểu tư sản nên bị đố kỵ như là phản động cài lại làm gián điệp tiếp tay cho những kẻ thù của cách mạng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa Trần Dần trong phong trào Nhân Văn, thẳng thắn chỉ trích thơ của Tố Hữu và tư tưởng hiện thực xã hội chủ nghĩa của tuyên huấn. Trần Dần bị bỏ tù vào nhà lao, tự tử không chết được thả về dưỡng thương, nhưng ngay sau bị đầy ra trại “học tập lao động cải tạo”. Mãi đến 1960, quá ốm đau được thả về. Nhưng chắc chắn một cái gì đã đổ vỡ, để từ đó nhà thơ của Dạ Đài, của bài thơ leo thang “Nhất định thắng” (hơn ba trăm câu) không còn hăng say phản kháng nữa, không hoài bão sáng tác thơ văn để thầm kín trả nợ đời, gieo hạt cho con người một chút gì thăng hoa hoài vọng về chân lý. Nhà thơ chấp nhận sự thất bại và sự bất hạnh của đời mình, để sau cùng hằng ngày ngồi yên không nói ở một góc nhà, và làm thơ mini (năm sáu chữ) mỗi ngày như liều thuốc ngủ. Vậy viết văn có thể gián tiếp như làm thơ mini.
Tiểu thuyết của Trần Dần có những đoạn văn thơ mộng và sinh động. Nhưng nhìn lại toàn tiểu thuyết thì có một cái gì bạc nhược, trắng đen quá rõ rệt, không chiều sâu tâm lý, không một chút gì khắc khoải nhân sinh, dù bối cảnh là xã hội “ tổ chức theo sổ hộ khẩu, đi đâu phải khai báo, khách đến nhà phải khai báo, khách đi phải khai báo. Nhân dân ở đây, từ trẻ thơ đến cụ già nói chuyện chính sách rất giỏi. Nói thầm trong nhà là có người nghe được, là thành câu hỏi….Buổi chiều thức khuya, đèn sáng cửa sổ là bị hàng xóm báo cáo.” Dưỡng nhân vật của tiểu thuyết, thanh niên tráng tác, yêu hung tàn vợ trẻ mới cưới, làm tình không ngại với Lili, gái điếm chỉ điểm cho tây, Dưỡng kẹt lại không di tản vào Nam có lẽ vì dằn di, vì mẹ già hay vì mới cưới vợ, lính tề ngụy nhưng đặt hy vọng vào khoan hồng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, sau biết ngoan ngoãn làm công dân, viết tờ tự thú cái đầu óc xưa đàng điếm của chính mình và hàng tuần ngồi yên nghe chỉ huấn của đảng của nhà nước trong những buổi họp khu phố.
Dưỡng là hình bóng phản ảnh nhà thơ Trần Dần không? Có một chi tiết nói hết lên sự chìm đắm bạc nhược của phận đời. Dưỡng đọc đi đọc lại tác phẩm “Tội ác và trừng phạt” cuả Dostoievski, như một “truyện trinh thám”, có án mạng tội ác giết người cướp của, tội phạm phải ra tự thú chịu hình phạt, đọc như thể một thông tin lá cải. Dưỡng không có tâm trí để nhận ra rằng Dostoievski là nhà văn có hoài bão đóng góp cho đời, tác phẩm của ông là chuyện của con người, con người với lý tính, tự do ý chí luôn luôn ở ngả ba đường thiện và ác - đi thẳng là thiện, rẽ ngang là ác. Con người rẽ ngang sang ác, vì phẫn nộ không chịu được sự bất hạnh thiếu thốn cuả đời mình, vì tự tôn và tự cho mình một sứ mệnh, mù quáng không cần biết thế nào là tội lỗi; nhưng một khi đã phạm tội rồi thì, than ôi! không hình phạt nào có thể cứu rỗi, đeo mang mãi mãi vết chàm đen thẳm ở lương tâm, mà chỉ có thượng đế nếu còn tin ở thần linh mới giải tỏa được tâm hồn.
Tháng 1. 2011
Ngô Văn Tao
(1): Nghệ thuật – tản mạn. Ngô Văn Tao www.gio-com
(2): Một chủ nhật khác – truyện của Thanh Tâm Tuyền . Ngô văn Tao www.gio-o.com
(3): Những ngã tư và những cột đèn–Tiểu thuyết của Trần Dần
nhà xuất bản Hội Nhà văn-Hà Nội tháng 1 năm 2011
(4): Trần Dần thi sĩ (1926-1997). Cao Tôn http://www.gio-o.com/NgoVanTaoTranDan.htm
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ