Nghệ thuật và Hố thẳm
Quế Anh Oil Pastel on paper
Nghệ
thuật và hố thẳm phận người
Tản
chuyện (tiếp theo)
Chiều
nay, Sapa
có mây phủ đầy trời che các ngọn núi. Sườn đồi xa
kia không có nắng hoàng hôn. Căn phòng như vắng lạnh
hoang vu viên
tịch, Giáng
mang củi ra đốt ở hỏa lô chân tường gạch. Căn phòng
bớt lạnh, bớt âm u trong ánh lửa bập bùng. Giáng tâm
hồn thanh thản thiêm thiếp chờ lửa tắt để màn đêm
xuống phủ trần gian. Nhưng tâm hồn Giáng không trống
rỗng như thiền sư vào cõi tịnh, như nhà tu khổ hạnh
xa lìa cõi tục. Giáng mông lung lạc lõng nhớ lại những
chuyện đã sống.
Se
lòng hối tiếc, Giáng thấy lại mình đã quá ngông cuồng,
quá khích thời trẻ, bài bạc, mê người đẹp, lang thang
vô trách nhiệm, phụ bạc người yêu, bỏ xa gia đình.
Thời gian lặng lẽ trôi qua để lại bao nhiêu mất mát,
tội lỗi cùng những vết thương trong tâm hồn. Tuy nhiên,
Giáng tự thoát ra khỏi sự trầm đọa tối tăm, vượt
quá hố thẳm đường cùng hối tiếc. Giáng nghĩ tất cả
vì mình đã chót mang cái mệnh bập bẹ ra đời làm nghệ
sĩ. Thật như chính mình là “người
hùng Nietzshe-ian”, luôn
luôn trong cái phận con người phải sa lầy vào hố thẳm
(la mise en abime), để vươn lên vượt
quá chính mình
với sợi dây cheo leo.
Giáng nhớ Albert Camus nghĩ
hiện tượng thần thoại Sisyphus là sự con người đẩy
khối đá phận đời leo đến đỉnh núi nhưng chưa thật
lên tới đỉnh đã bị đá nặng đè lăn xuống núi để
mà không ngừng lại tiếp tục như thế lao khổ vô vọng,
và có lẽ cũng như Nietzsche nói tới “vĩnh hằng tái
diễn” (l'éternel retour = Die ewige Wiederkehr), là nói tới
con người cheo leo với sợi dây đời nghệ thuật để
rồi lại rơi vào hố thẳm của dục vọng, của tội lỗi
đam mê trong cái bất tất Dyonesis (mê say cuồng si sống
với ly rượu) của sự sống. Như thế, Giáng tự bào
chữa và tự an ủi rằng mỗi một tác phẩm nghệ thuật
là một lần chới với lên cao, nghệ sĩ sẽ lại phải
âm thầm sa đọa nặng lòng hoài bão vô vọng vươn tới
chân trời tuyệt đối.
Khi
xưa, Bùi tiên sinh, thi nhân cuồng sĩ của văn học Việt
Nam, không ngừng lên
cao rồi xuống thấp.
Mỗi buổi sáng khi nắng chưa lên chim đã hót, tiên sinh
tỉnh giấc ngủ trên cái võng giữa vườn nhà, bên gốc
mít, thấy cuộc đời rộn ràng và hứa hẹn. Với chén
trà nóng cô hàng sớm bán bên ngõ, tiên sinh là có thể
ngồi viết trên giấy vụn hàng trăm chữ những ý thơ,
những suy tư thâm trầm triết học. Để rồi khi nắng
lên cao, ý cạn, đời vắng lặng trong cái ngõ hẹp này
của thành phố, Bùi tiên sinh phải lên đường, chân
không áo quần sô lệch, lang thang mọi phố xá rộn rịp
của Sài thành. Trong túi thường không một xu, vì hôm qua
bao nhiêu tiền tiên sinh có thể có đến từ trời, người
thân xa gần đóng góp hay may rủi một vài tiền nhuận
bút, đã phân phát hay đã trả nợ vu vơ. Không tiền,
tiên sinh đói sẽ ghé quán cơm hè đường ăn nắm cơm
thừa hay ăn nợ bát phở xuông, còn uống rượu thì ghi
luôn sổ nợ. Chiều về lại nằm lăn trên võng, say mềm
rượu lậu, thấy mình lặng lẽ cô đơn như đã rơi
xuống khe sâu, nhưng mà may còn dư trong đầu những ý thơ
phảng phất đã đến trong ngày để mình không chết trôi
vì được nàng
tiên thi ca (Mnemosine)
níu giữ.
Níu
giữ những bước chênh vênh trong chính cuộc đời mình!
Bùi tiên sinh chắc chắn chia sẻ cùng Giáng cái phận “lưu
vong” trên
con đường dài “không
có ngõ về cố quận”, như
bao nhiêu thanh niên việt nam khác trưởng thành trong thời
loạn, tám năm tham gia chiến tranh chống đế quốc thực
dân Pháp, rồi nước nhà chia đôi, chìm đắm trong nội
chiến, ba bốn lần di tản bỏ thành thị, bỏ quê nhà,
từ nam ra bắc từ bắc vô nam, ròng rã bốn mươi năm,
kết cục không ít người phú sinh mệnh cho biển cả từ
bỏ xứ mình, lưu vong trên đất lạ. Giáng tự nghĩ mình
cũng đã lang thang lưu vong gần ba mươi năm Âu Mỹ vẫn
một thẻ thông hành Việt Nam Cộng Hòa, khi nửa nước là
Xã Hội chủ nghĩa, nửa kia là Cộng Hòa, không biết đâu
là chính nghĩa, đâu còn là quê nhà. Cảm thức lưu vong
tràn đầy văn nghệ Việt Nam. Nguyễn Tuân, con
người xê dịch,
dù đã viết “Vang
Bóng Một Thời” lý
tính hoài cổ, nhưng chỉ muốn là người hầu trên một
con tàu xuyên đại dương để sống tận cùng sự lưu
vong trên xứ lạ. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, xé thẻ đảng
viên con cháu bác Hồ, đóng cửa sống một mình đến tận
về già, vẽ rồng vẽ rắn, vẽ người vẽ trẻ em như
trừu tượng, nhiều khi lang thang như “người
dại, người dưng” nhặt
hòn đá lạ, mảnh sành cổ, tang vật của thời gian nhắc
nhở địa đàng nào đã mất....Còn Trịnh Công Sơn đã
viết cùng Giáng một đoạn thơ tiếng pháp này:
Xa nhà xa đất nước xa
quê hương
lữ khách trên đường
giữa chiều hôm
trong trái tim ta có mặt
trời xứ lạ
cho nụ cuời non trẻ cho
những bông hoa
ta mang tặng cho đời cho
sự lưu vong
những
mảnh hồn lưu vong trong cõi tạm (pour
l'exil, l'exil de l'homme en exil de soi même)
Trịnh
Công Sơn và Giáng vô tình chia sẻ ý bay bổng của Phạm
Công Thiện: “Thi ca bắt đầu bằng
sự ly hương và ly hương ngay trong lòng đất quê hương.
Chi có kẻ nào đẩy sự ly hương đến cùng tận thì nỗi
nhớ quê hương mới thực sự là bước đầu đúng nghĩa
để trở về... với thi
ca (Bùi tiên sinh) ”. Lưu vong, chìm đắm trong hố thẳm
phận người, và cứ thế mỗi lần là một lần vươn
lên vượt qua chính mình; theo A.Camus, chinh đấy là hiên
ngang như Sisyphus vui sống chấp nhận lao cùng vô vọng.
Hay theo Phạm Công Thiện,Trịnh Công Sơn và Giáng, là nghệ
sĩ biết níu giữ sợi dây cheo leo của nghệ thuật. Hàn
Mạc Tử đã tìm được ánh trăng trong đêm cùng bạc
mệnh. Van Gogh, họa sĩ tài danh, đã thấy mặt trời qua
đám quạ đen muốn phủ đầy cả đồng ruộng và phủ
cả tâm hồn.
Bài thơ mỏng manh của Hàn Mạc
Tử , bức tranh Hướng Dương của Van Gogh chỉ là những
giọt lệ khới động trùng dương biển cả trần gian.
Giáng nhiều khi tự nói những sáng tác văn thơ của chính
mình rồi đây sẽ thất lạc và mai một: “Ôi
năm tháng! Những dấu chân người cũng bụi mờ.” Lưu
vong sống ngoài lìa xã hội, tâm
thức phản kháng (le rebelle de A.Camus) và vô chính phủ,
Giáng không bao giờ mong
muốn đóng góp gì cho tha nhân, cho quê hương, cho xã hội.
Dù Giáng vẫn biết rằng đã có một thời thơ ấu sống
trong khuôn khổ Khổng giáo. Không giáo với “ nhân,
lễ, nghĩa” là cả một
minh triết thực tiễn lập thân, đảm nhận phận công
dân của quốc gia, giáo điều lễ nghĩa trong gia đình và
trong xã hội...Khổng giáo chính là cơ sở cho sự hưng
thịnh của văn minh hoa hạ Đông Á, mang đến sự cường
thịnh cho những nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn...
Và nữa Giáng vẫn sống đây với khoa học kỹ thuật Âu
Mỹ. Nền văn minh cấp tiến cũa những xứ sở này xây
dựng trên tư tưởng triết lý của “Chủ Nghĩa
Thực Dụng” (The pragmatism), chủ
nghĩa với châm ngôn: “Những điều ta nghĩ,
những điều ta làm chỉ có giá trị qua những ảnh hưởng
tới thực tế cuộc sống, những ảnh hưởng cho ta biết
đường tối ưu để lập thân, đường tối ưu để đóng
góp cho xã hội.” Nhưng
Giáng luôn nghĩ triết lý chủ nghĩa này và khổng giáo
kia không vang vọng gì tới nghệ thuật, nghệ thuật trong
cái nghĩa “phát động từ hố thẳm” (la mise
en abime) Nietzsche-ian.
Hãy để văn minh thực tiễn
cho Khoa Học, hãy để đạo lý công dân quốc gia, xã hội,
gia đình cho Triết Lý. Cái bản năng thứ ba Nghệ Thuật
của lý tính con người là để biết cô đơn”kiêu
hùng” sống trong vũ trụ
mênh mông bản ngã nội tâm, hố thẳm của dục vọng, sa
ngã không cùng sinh thể, mâu thuẫn giữa hoài bão cao siêu
với phù du và bất tất không đâu của sự đời. Tất
cả những tác phẩm nghệ thuật có một chiều sâu nào,
Giáng xác nhận, đều tiềm ẩn nỗi cô đơn kiêu hùng đó
của nghệ sĩ. Người ta thường nói: “Ngày vui
thì qua mau, chỉ những nỗi buồn, mất mát và thất bại
mới lâu dài chìm đắm ta như bất tận”. Chìm
đắm như bất tận, nghệ sĩ mới cố vươn lên. Tác phẩm
nghệ thuật linh lung sự đau thương tiềm ẩn, sự khát
khao khắc khoải nội tâm, những hoài bão vô vọng, tất
cả những gì bi quan tiêu cực trong cái phận làm người.
Ở Bùi Tiên sinh, ở Trịnh Công Sơn là như vậy. Tiềm
ẩn qua nỗi niềm cố quận, qua muộn sầu tình yêu mong
manh phù du như có như không. Những tia sáng lung linh của
nghệ thuật mà người đời nếu thông diễn giải cảm
thức sẽ tự tìm lại chính mình “kiêu hùng”
nội tâm, đảm nhận sống tận cùng cái kiếp làm người.
Tháng 2 năm 2015
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ