Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Tiểu thuyết

                          LỆ HÀ (1933-2012)             Oil on canvas 135cmx135cm

 
Tiểu Thuyết Chưa Được Viết
(Le livre à Venir – Maurice Blanchot)

Mấy hôm nay, Giáng tự thấy nhẹ nhàng thanh thản trong sự cô đơn và vắng lặng, Giáng không mở tv-truyền hình, không vào mạng điện tử Tuy nhiên bốn hôm trước Giáng có vào đọc trên mạng gio-o.com và sau đôi khi còn thầm hát bốn câu thơ này của nhà văn Mai Thảo ( bài thơ: Nghe Đất , phổ nhạc: Trầm Tử Thiêng):
Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
...Người nằm nghe đất bao lâu
Tai ương ngỡ tiếng đời sau thở dài”
Giáng tự hỏi: “Nếu có đời sau, ta ước làm gì nhỉ? Vẫn là nghệ sĩ, nhưng hội họa hay viết văn?”

Một câu hỏi Giáng đã nhiều lần tự hỏi, và đã sẵn có một câu trả lời, đó là Giáng ước làm họa sĩ. Tại sao hội họa? Hội họa là nghệ thuật sâu xa nhất ẩn dụ nhất và cô đơn nhất. Những bức tranh của Van Gogh, của Bùi Xuân Phái hay của Lệ Hà chỉ có thể là những quý vật riêng tư cùa một người. Mỗi một bức tranh là tiếng nói âm vang tự một tâm hồn đơn độc, tiềm ẩn một thế giới tư duy mà chỉ riêng một ai đó sở hữu, phẳng lặng treo trên tường, lặng lẽ vô tư từng ngày sống với bức tranh dần thông suốt cảm nhận cái vô cùng của tâm hồn người nghệ sĩ. Hội họa, với những sáng tác độc nhất không thể tới tay nhiều người và chỉ có thể cảm nhận qua nguyên tác phẩm, trong cái cao siêu nhất của nghệ thuật, phản bác mọi tính cách bình dân túy có thể có ở âm nhạc và văn thơ.

Giáng luôn luôn nhớ câu nói này của Lệ Hà. Bà ốm đau, chú em hỏi làm sao chị vẽ đây (khi cả đời chị là sáng tác nghệ thuật), bà trả lới : “Chị vẫn vẽ đấy, chị vẽ trong đầu !” . Một câu nói lên tác phẩm nghệ thuật thường phải là toàn khối tiềm ẩn ôm ấp trong tâm hồn của nghệ sĩ. Có lẽ chỉ những tác phẩm của hội họa hay của điêu khắc nghệ thuật mới đạt được cái tuyệt đối đó, hơn nữa người họa sĩ hay điêu khắc gia như thế còn là tự nhiên tuyệt vời siêu thoát danh vọng, bấp bênh thời thượng vì tác phẩm phải là độc nhất mà vô ngôn ẩn dụ một khát khao, một hoài bão, một nhớ nhung riêng tư ở tận đáy lòng.

Tuy nhiên như nhiều lần khác, Giáng đã tự nghĩ chính mình với thi ca đã một ít nào cảm nhận được cái khía cạnh độc đáo trên của nghệ thuật. Có rất nhiều người trách sao thơ của Giáng khó hiểu, mông lung vời vợi quá, Giáng chỉ biết mỉm cười. Thơ là ngôn từ, là hình ảnh, là ý tình đan kết, có ước vọng đạt tới sự vô ngôn của một bức họa, của một bản nhạc vô thanh, và nói lên một cách, than ôi!, rất thầm kín một nổi niềm như có như không nặng trĩu của một tâm hồn, của một giây phút sống tận cùng khổ đau khao khát tuyệt đối trong tội lỗi hay tình yêu.

Chính vì Giáng không quên bản năng khoa học và triết lý. Giáng là cựu giáo sư toán đại học và luôn luôn thích đọc và suy tư trên những tiểu luận triết lý. Suy nhận cho cùng, toàn tập thi ca của Giáng có thể nói đã là một quyển truyện không đoạn kết trong sự đối diện chính mình, đi tìm sự thật. Có những khi, Giáng tự trách sao không làm nhà văn để viết ra một thiên tiểu tuyết nói lên minh bạch hơn, lý lẽ và cấu trúc một hai hơn về sự tìm kiếm bất tận đó, tìm sự thật của bản thân và của tất cả những gì trong xã hội, trong những người quen xa gần, và trong lịch sử đã tạo dựng thế giới hiện sinh vật chất và nội tâm của mình. Giáng liên tưởng đến nhà văn người Áo Robert Musil (1880-1942), đã để gần bốn mươi năm viết quyển truyện dang dở dày hơn ngàn trang, “Der Mann ohn Eigenschaften” ( Một người không đặc tính) – mà Giáng đã đọc với bản dịch Pháp văn (L'homme sans qualités). Robert Musil, gián tiếp là thi nhân, viết quyển truyện trình diễn sự hiện thực của một phận người trong cái xác xuất bấp bênh có thể là đây, có thể là không, với nội tâm tràn đầy tình yêu hư ảo, sống trong một xã hội, một đất nước đã tới thời mạt vận.

Miên man, Giáng tự mỉm cười có lẽ mình cũng từng có ý làm nhà văn để viết một quyển truyện. Nay có thể sẵn đủ bản năng để thực hiện, đủ chiều sâu triết luận thêm khả năng vượt cái mông lung lãng mạn siêu hình của thi ca dù thi ca là tuyệt đối trong lý tính của Giáng, nhưng than ôi, Giáng không còn thời gian nữa như Robert Musil (40 năm??) để viết quyển truyện hư ảo trong sự đi tìm sự thật. Giáng đành thêu dệt, quyển truyện mà ta muốn viết đây phải là “tân phái tiểu thuyết” với “phản-nhân-vật” (un anti-héros). Phản-nhân-vật tự thấy bóng mình méo mó trên màn ảnh. Không xác-thực (non-authentique), nhìn đời ngạo nghễ và lệch lạc; và tiểu thuyết là những lời độc thoại hay ghi nhớ trên trang nhật ký, đàm luận không đâu nhưng rất đời cùng những nhân vật khác hư hư thực thực. Tuy nhiên có lẽ một phần nào chính là Giáng, trí thức và tràn đầy ước vọng, cuồng nộ yêu đương, tha thiết tình người. Không một ai quanh đây là tận cùng tội lỗi, sa cơ bao nhiêu lại càng thêm thông cảm thương sót. Người đàn bà mà Giáng yêu, đều rất đẹp rất mong manh với những nét nhăn của thời gian, những vết thương của sự đời, Giáng ôm mang che chở nhưng sự thật lại là nàng đã biết mở hai cánh tay nâng đỡ Giáng lạc lõng tuyệt vọng hay quá đầy đọa trong ham muốn dục vọng không đâu.

Tiểu thuyết là hồi ức mông lung quá khứ, linh cảm vô căn cứ nhớ việc gì đã tới nhưng chưa chắc gì đã tới. Đời, nhân thế và thế sự là bộ phim chiếu trên màn ảnh không phẳng, méo mó những bóng hình. Nhưng dù méo mó vẫn là chuyện đời đa dạng, hai ba mặt trắng đen không lường. Những nhân vật hiển hiện với nét vẽ lập thể sâu đậm, nội tâm bất định của những con người sống trong một thời đại đầy mâu thuẫn. Kẻ phản cách mạng chỉ là kẻ phản bội chính mình, phản bội cái ước mơ lý tưởng mù quáng mà họ đã có. Người lập chiến công không phải là người hùng, người thất trận không phải là đã bại. Lão thành hiển vinh là nấp sau cái bình phong đạo đức bề ngoài, đóng cửa hưởng thụ cao sang danh vọng với cái số may đến tự trời.
Giáng nghĩ sẽ phải lôi kéo người đọc chìm đắm say mê sao trong sự trình diễn miên man như bất tận ấy của sự đời. Tuy nhiên người đọc rồi sẽ trầm tư nhận ra Trọng, phản nhân vật chính của tiểu thuyết, luôn luôn để hết lý tính đi tìm sự thật. Chính đó là chủ đạo của tác phẩm văn chương. “Tìm sự thật!”, sự thật của từng người, của xã hội, của lịch sử và thế giới xung quanh và trước hết nữa sự thật của chính mình. Nhưng sự thật là sự thật trong sự hiện thành của mọi sự và như thế chỉ có thể là mờ ảo tuy dẫn đạo đến tương lai có thể có hay ngược lại trở về quá khứ soi rõ lại mặt trái của những nhận thức tức thời, đạp đổ những tượng đài, hiển vinh những kẻ sa cơ, diễn trình lại những tội lỗi.
Quyển truyện sẽ mang ra một minh triết nào không? Theo Giáng biết, nói về minh triết lập thân, làm một công dân trong gia đình xã hội, đóng góp cho một đất nước an bình trật tự, có lẽ nhân loại chỉ có minh triết của Đạo Khổng và Thực Dụng chủ nghĩa (le pragmatisme) anh-mỹ. Dĩ nhiên quyển truyện mà Giáng ước muốn viết không thể có một triển vọng như vậy. Nếu có một dư luận gì về lập thân làm người, thì chỉ là chúng ta hãy cảm thức rằng với hiện đại sự, giờ đây người ta mất dần đặc tính, trở nên máy móc quay cuồng, nếu có một ý thức chung cục nào, đặc biệt cho quê hương của Giáng này, là hãy nhận định rằng xã hội chúng ta đang sống đương ở một thời mạt vận. Chúng ta chờ đợi một cuộc cách mạng. Không phải một cách mạng bạo động, mà chúng ta vừa sống qua, đảo ngược cả xã hội để lại một hố thẳm chôn vùi tất cả những gì thần bí mà chúng ta đã từng có. Cuộc cách mạng mà chúng ta chờ đợi là cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa để chúng ta tât cả biết sống sao trong hiện đại sự và vẫn tìm lại cho mỗi người một đặc tính, đặc tính của “con vật cô đơn và kiêu hùng”.


Tháng 4/2015
Ngô Văn Tao


0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ