ngovantao

Ảnh của Tôi
Tên:

my writings with the illustrations - painting by the little girl-artist Ngô Quế Anh, six years old (her birthday:21.9.2002) Với những bức ký họa của Ngô Quế Anh, họa sĩ nhí, sáu tuổi (sinh ngay 21-9-2002)

Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2009

Lưới trời - The captive


Ký họa Quế Anh (sáp màu trên giấy) Ráng chiều lung lay-Twilight shiver


In memory of Marylin Monroe

The Captive


Poor human beings, we dreamed of you

Roses were there to recall the story

Your fleeting presence on earth

Screen skylark caught in despair


South-west wind flew away our prayers

Leaving dead flowers to the river

Night shiver, withered petals

Past melodies, plaintive life ballad


Time and being, shade and light

Shadows in procession of sorrows

Long line funeral in the twilight


Mourning your life and your charm smile

We have to go back to the Old Books

Living anew the human drama

2009

(original version: French sonnet,La captive in Papyrus, ngovantao 2000)


LƯỚI TRỜi

(theo ý của Bùi Giáng)


Này người vẫn ở bên tôi

Đóa sen lìa ngó vương tơ đoạn trường

Hay là chim én địa đàng

Lạc trong tuyệt vọng vô biên lưới trời


Tây Nam gió động trùng khơi

Bập bềnh sóng nước nổi trôi lời thề

Lá rơi mặt đất lung lay

Đứt dây bạc mệnh hận tình còn vang


Tử sinh một kiếp vô thường

Một hàng khăn trắng đưa đường người đi

Kiệu hoa linh cữu trong chiều

Khóc thương chiếc bóng yêu kiều hôm xưa

Trên màn ảnh chiếu trong thơ

Buồn đau hí kịch cười thề lệ sa

2000


La Captive

À la mémoire de Marilyn Monroe


Ainsi tu régnais dans nos rêves de mortels

Et les roses sont là pour raconter l’histoire

De la présence éphémère d’une hirondelle

Prise au filet des ténèbres du désespoir


Le vent du Sud-Ouest emportait notre prière

Et laissait au cours d’eau le bouquet de la mort

Des pétales fanés, le frisson de la terre

La rengaine d’amour, la complainte du sort


Du temps et de l’étant, d’ombres et de lumières

Silhouettes perdues, courbées par la douleur

Dans le couchant, nous transportions ta civière


De ce deuil et en souvenir de ta douceur

Il nous restait

...............-oh! les pages de l’Ancien Livre-

Le bruit et la furie des drames à revivre

(sur une idée de Bui Giang) 1998

Mở đầu - The prologue


Quế Anh (oil pastel on paper) Cùng bay bổng – Flying together


Prologue

Thinking and hoping, to become and to despair
Turning it back but unable to live it again
To be full of wills and let in oblivion
The tiny dust, incrusted somewhere
In our face’s wrinkles leading to the unknown
To love wholly with our heart and be unfaithful
Even to ourselves, deplore it into the wind
Blowing off our name and the love’s one
Longing, as if it was possible, for a permanence
In the dwelling of the exiled, lost travellers
Oh! Just going up and quietly departing
Into the blue sky, serenely over the mountains

I’ll have my hide-out high in the mountains
The North star to guide your paths
If ever are we going to meet
We will take together a flight to the infinite
May.2009


Trầm tư hy vọng trở về và nuối tiếc
Quay mặt lại và không một lần sống lại
Thèm khát bao nhiêu để mà quên
Hạt bụi huyền khảm trên đường nhăn
Con đường đưa ta về vĩnh cửu
Yêu tận cùng để mà phụ bạc
Phụ bạc người và cả chính ta
Ước mơ chi cõi vĩnh hằng cư ngụ
Dưới mái trọ đau thương và phiền não
Hãy bay lên cao và lẳng lặng đi
Cùng tan biến vào trời xanh núi biếc


Tôi dựng ngôi nhà trên núi cao
Sao hôm sẽ mãi mãi dẫn đường
Để ta sẽ cùng nhau gặp lại
Và cùng bay bổng giữa trời xanh
Nvt 2000


Le prologue original

Une pensée un espoir le devenir le regretter
Nous retourner sans trouver sans pouvoir revivre
Désirer mille choses et oublier pourtant
Ce grain de poussière incrusté quelque part
De la ligne de notre visage à celle de l’éternité
Aimer à fendre le coeur être continuellement infidèle
Une image et à nous-mêmes pour le redire au vent
D’emporter son nom et aussi le nôtre un soir
Aspirer comme si c’était possible à une permanence
Dans la demeure de souffrances et de pas perdus
Oh! Seulement monter et calmement partir
Dans l’air bleuté combien serein des sommets

Je bâtirai mon nid en haut de la montagne
Une étoile accrochée pour vous guider le pas
Et si nous devrions enfin nous retrouver
Ensemble irions-nous dans un vol imbrisé


Nvt 1985

(Du recueil Papyrus-Ngo Van Tao 2000)

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2009

Mộng đêm hè - The midsummer Night's dream


Que Anh (acrylic on board 20x30cm) Mộng mơ - To muse


The Midsummer Night's dream


For many years the memory

The Midsummer Night's dream

The sky were cloudless

And time flowing by in happiness


It was a song, the old time song

To remind the wonder of the night

The river were all marvels

Bright waves under the midnight sun


Your body, the lovely souvenir

Your breasts in gloomy morning glow

Covered by a veil, the innocence veil


And life has to go on

Drive of desires turns of regrets

To muse on the yerster-summer’s night

2009

English translation of the original french sonnet: Songe d’une nuit d’été dans le recueil Papyrus 2000



MỘNG ĐÊM HÈ ( Bùi Giáng phỏng dịch tái tạo)


Ấy xưa một giọt lệ sa

Giờ chiêm bao mộng đêm ngà tái sinh

Huy hoàng mùa hạ mông mênh

Phút giây từng giọt lênh đênh từng giờ


Ấy chỉ là một lời ca

Từ vô tận kiếp đêm tà bấy nay

Sông trôi chìm nổi sóng trào

Tuyệt trù nắng quái ngày dài không đêm


Thân nàng như thể lưa thưa

Một đôi vú cấm tơ chùng so le

Thân nàng như thể xế trưa buông thuồng


Niềm đau chạy suốt điêu linh

Rằng tử sinh cứ vô tình rong chơi

Thương nhau như thể bất ngờ gặp nhau

Bùi Giáng 1994 (trích từ tập thơ: Vào Chung Cục Thơ. Bùi Giáng-Ngô Văn Tao 1994)



SONGE D’UNE NUIT D’ÉTÉ


Ce ne fut qu’une larme, une larme versée

Le secret avoué, le songe d’une nuit

De l’été où le ciel a toutes ses clartés

Les heures s’égrennent du bonheur qui s’enfuit


Ce fut une chanson, la chanson bien vieille

Qui revient rappeler la douceur d’une nuit

La douce rivière se comblait de merveilles

Ondes lumineuses du soleil de minuit


Son corps fut allongé comme un don de l’amour

Les deux seins pâlissant, lever-trouble du jour

Et avec un voile, le voile d’innocence


Mais elle continue, la ronde de la danse

Oh! Nouvelle amertume Oh! Anciennes promesses

Adieu rêve-tendresse, Eté de la jeunesse

Nvt 1994

Sương tỳ hải - Ionian Sea


Quế Anh (ký họa sáp màu trên giấy) Bông hồng dâng em
Rose-petals offering



IONIAN SEA

I’ll bring you gold from the Ionian sea
Yellow gravels on brown sailing boats
Past shadows under the eastern wind
Rippling waves through the history-mist

I’ll offer you gold-dust of memory
The time we lived in company of gods
The grace of Helen breaking heroes’heart
For the war and the end of Trojan dream

Rose-petals for the present pains
And the remainder of our living time
Fragile happiness to which we are subdued

Silence and whisper from the distant era
Will it be floating back in rays of hope
A new dawn for our life and our loss
nvt 2005




Sương tỳ hải

Anh mang em thỏi vàng từ biển cả
Bụi vàng trên những cánh buồm nâu
Bóng ngả nghiêng theo chiều gió lộng
Sóng dài lịch sử gợn trong sương mù

Anh dâng em hạt vàng của ký ức
Thời xưa tiên còn ở lẫn với người
Mỹ nhân hư ảo người hùng ngã ngựa
Sóng nước nghiêng thành cũng chỉ vì ai

Bông hồng cho nỗi đau hiện tại
Cho thời gian còn sống ở đời
Hạnh phúc mong manh như hàng lệ

Xa xôi vang động tiếng ngậm ngùi
Như còn đây những năm ước vọng
Để dư hoài mất mát với tình yêu
NVT 2009


Le sonnet original
IONIE

Je te transporterai l’or de la mer d’Ion
Grains de sable sur les bateaux à voile brune
Tels dans un songe au grand large sur le sillon
De l’histoire à l’horizon perdu dans la brume

Je t’offrirai les pépites de la mémoire
Du temps où l’on vivait en compagnie des dieux
La grâce d’Hélène aurait causé les déboires
Et la chute de Troie aux héros impétueux

Des pétales merveils pour la présente peine
Pour tout le temps que doit continuer la vie
Et le frêle bonheur dans lequel on s’enchaîne

Murmure du silence et de la nostalgie
Du passé remontera-t-il une espérance
L’espérance de l’aube au delà de l’absence

1998 (publié dans le recueil Papyrus-Ngo Van Tao 2000)

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2009

Nỗi buồn chiến tranh - The war sorrows


Quế Anh ( oil pastel on paper) Nỗi buồn chiến tranh- The war sorrows


A war Canto


You gave me a rose an autumn morning

I did not smile nor say anything

I would like you to stick the flower in my hair

And I could be called the rose of our life

You gave me a rose in the day morning

The morning with a frail sunny air

It was the last of our youth’s peaceful days

And I did not have the heart to look at you

Keep your hands tight to my breasts

The war has to be for long sufferings-years

People's adrift in misery and sorrows

I keep only of you the fading souvenir

Coming back from the war will you look for me ?

If it is not you in the ever coming peace

Who would know even that there will be anew autumn days

That now barefoot, I have been the rose of all flowers

Your loving heart in past autumn days?

nvt 2009



Thành tựu của binh đao (Bài ca thứ hai)(trích)


Anh cho em bông hồng năm ấy

Em không nói và em cũng không cười

Để anh cài hoa trên mái tóc

Gọi em là bông hoa của cuộc đời

Anh cho em bông hồng ngày thu ấy

Sáng trong xanh và nắng dịu dàng

Thời tuổi trẻ thanh bình trên đất nước

Em bẽn lẽn không ngước nhìn anh

Đặt tay anh trên ngực em thổn thức

Chiến trận tràn lan người người khốn khổ

Bèo hoa phải dạt trôi mãi về đâu

Chẳng biết bao giờ thanh bình trở lại

Anh đến tìm em ở tận cuối trời

Chẳng biết bao giờ lại là mùa thu

Em lạc lõng trên dặm dường gió bụi

Có còn ai nhớ em đã là

Bông hoa kiều diễm một ngày thu

www.gio-o.com/ngovantao


La réalisation des armes (le second chant)


Tu m’as donné une rose le jour de cette année

Je n’ai pas souri et je n’ai rien dit

Je t’aurais tant aimé me la glisser dans les cheveux

Et on m’aurait appelée le fleur de la vie

Tu m’as donné une rose ce matin de l’automne

L’air cristallin si fragile et si fragile

C’était le dernier jour paisible de notre jeunesse

N’ai je pas eu le courage de te regarder

Te prendre la main et me la déposer sur le sein

De souffrances en souffrances la guerre a été longue

De dérive en dérive le temps a passé

Je n’ai plus de toi que le souvenir fané

Qui donc viendrait me chercher quand la paix revient

Et qui saurait, s’il y aura un autre automne

Que maintenant pieds nus, j’ai été la rose des filles

La rose aimante d’un jour de l’automne

nvt 1980

(Extrait tiré du poème du même titre dans Papyrus- Ngo van Tao 2000)

Thứ Ba, 26 tháng 5, 2009

Người lính vỡ trận - The lost soldier


Quế Anh (oil pastel on paper)
Vườn hoa trái phá - The fruits garden of the war

A la mémoire de mon frère, du mauvais côté de la guerre du Vietnam, perdu sans laisser de traces dans les affres des derniers mois avril-mai 1975 de la guerre.
Le Soldat Perdu

Des images d’enfants sont imprimés dans notre mémoire, nos aspirations, nos illusions et nos vélléités.
Aussi dur que soit notre désir de justice et de vérité, toujours en nous il y a la plaie immense de la défaite.
Nous rêvons debout et nous sommes si résignés.
Mais de la ville, entendons nous la clameur? Et résonne-t-elle, la fanfare de la victoire avec les dieux nouveaux et les adulateurs soumis? Nous serons le dernier à avoir le courage, l’homme à emporter l’étendard des vaincus de la lutte absurde et de la guerre perdue.
Nous portons au cou, semble-t-il, la lourde pierre de notre destinée.
De tous les combats futiles, nous portons au front une balle coincée (déviée pour que la vie subsiste), comme de notre naissance la marque idélébile.

Notre vie est une partie d’échecs dont nous refusons confusément la règle.
Quand se lève le jour, nous voyons sur le mur se faufiler des ombres dont nous n’avons pas su et nous ne saurons jamais deviner le rêve et le désespoir.
Notre vie est une femme aux yeux clairs qui se voilent lentement à la bruine du soir, un enfant à bercer, à tenir par la main et qui marche à côté des autres sans amour ni trop de haine.
Nous sommes étrangers et inconnus dans notre ville, innocents de notre propre jeunesse, quelle prostituée pure dont nous ne prononçons pas le nom mais le souvenir réchauffe la nuit de notre hiver.

Nous sommes à l’image de l’ombre qui s’allonge, là où il y a le silence et la solitude, là où notre vue s’obscurcit avec la ville endormie dans le lointain.
Nous sommes tels que ce soldat nu, tendu comme une flèche pointée vers le zénith et qui se dresse contre la mer.
Nous sommes tels que cet homme qui se laisse enfin flotter vers le large par la monotonie fataliste de ses tours de bras, dans la plénitude finale de la liberté bienfaisainte – jusqu’à ce que le ciel devienne noir, les étoiles scintillent et la ville paraisse se réveiller de ses lumières lointaines.
Et nous sentirons soudain la froideur des profondeurs, la houle qui nous happe, quand nous nous retournons pour regarder encore une fois la dernière des étoiles.
nvt 1976

(in the following the english translation by P. Gallagher, professor of Mathematics department- Columbia University. New York city)


Tôi viết bài thơ tiếng Pháp “Le Soldat Perdu” năm 1976, tưởng niệm đến người anh ruột Ngô Văn Tân, thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà, năm 1973 giải ngũ vì bị thương nặng trong chiến trận biên giới Cao Miên (một mảnh đạn hằn yên trong xương sọ ở trán).

Tháng 5.1975, như tất cả các cựu chiến binh Cộng Hoà được lệnh phải trình diện để đưa vào trại “cải tạo” của “cách mạng xã hội chủ nghĩa”, anh đã lặng lẽ bỏ vợ con ( một người vợ có tật và năm con dại) ra đi với khẩu súng tuỳ thân thiếu tá. Ra đi về đâu một buổi sáng tháng 5.1975? Gia đình cho đến bây giờ (2007) không có một tin tức mỏng manh nào. Anh ra đi vào tuổi 47..

Dưới đây là hai bài phỏng dịch “Le Soldat Perdu”. Bài tiếng Anh của giáo sư Patrick Gallagher Đại học Columbia - New York City. Bài phỏng dịch tiếng Việt của chính tôi.
NVT



Người lính vỡ trận
để tưởng niệm người anh của tôi

Còn trong ký ức những hình ảnh của ngày thơ, trong tim những hoài mong, phấn chấn ảo vọng, chúng ta tìm đến công lý và sự thật, nhưng mãi mãi trong chúng ta niệm sầu thất bại. Chúng ta lang thang mộng du trong thành phố vang dội tiếng ca của ngạo thần chiến thắng, tiếng reo của bầy chiên khấu đầu. Chúng ta là người lính cuối cùng mang trên vai ngọn cờ bại trận, như hòn đá oan khiên định mệnh. Trong cuộc chiến tương tàn vô ý nghĩa, chúng ta là kẻ ngã trận, mang trên mình thương tích, trong xương thịt những mảnh đạn vỡ như những vết chàm đã có từ buổi ra đời.

Cuộc đời là ván cờ mà chúng ta không tuân theo thế trận. Khi ngày lên chúng ta là bóng đen di hình trên tường đổ, ôm mang ước mơ và tuyệt vọng không lời. Cuộc đời là người đàn bà mắt sáng, đôi mắt lung linh mờ dần trong sương xuống của màn đêm, là đứa bé dìu dắt bàn tay mềm giữa đám người dửng dưng không thương yêu không hận thù. Chúng ta lạc lõng trong thành phố của chúng ta, không sám hối gì cho một tuổi trẻ hăng say quyết liệt. Tuổi trẻ của chúng ta! Người kỹ nữ mà chúng ta không nói tên, nhưng kỷ niệm trở về sưởi ấm đêm đông.

Chúng ta lẩn vào bóng tối im lìm cô liêu, chiếc thân trần truồng trên bãi biển chĩa thẳng vào không trung khi thành phố đang vào trong giấc ngủ. Rồi chúng ta bơi dạt ra khơi, nhịp nhàng đập nước, tự do không cùng ( cho đến khi tất cả bầu trời đều đen tối, chỉ còn một vài vì sao lấp lánh và thành phố ẩn hiện ánh đèn xa thẳm). Chúng ta bỗng cảm thấy cái lạnh của vực sâu, ngọn sóng ngầm cuốn chìm chúng ta cùng trời đất, khi chúng ta quay mình nhìn lại chỉ thấy một vì sao.

2007


The Lost Soldier
In memory of my brother, caught in the wrong side of the Vietnam war, lost away in the last days of the war (avril-may 1975) without leaving any hint about his fate. NVT

As children-pictures printed in our memory aspirations illusions and whims, with all our desire for justice and truth, there is in us the wound of defeat.
We are dreamer but we know to resign.

Victory fanfares resound from the town, adulators applaud and bow before the new gods but we are the last soldier to have courage and carry the flag of the vanquished in a lost war. We have the destiny stone fastened around our neck and a shameful souvenir bullet stuck in our forehead as an indelible birthmark.

Our life is a game of chess in which we reject the rules. We are but shadows creeping along the walls with unconfessed dreams and despair.
Our life is like a woman with clear eyes dimmed by the evening mist or like a child to be nursed and to be taken by the hands with neither love nor hate.
We are stranger in our town but innocent of our past youth. Our past youth! A lady of the night, whose name we do not whisper but whose memory warms our winter nights.

Lenghthening image in silence and solitude on the beach under a darkening sky, with the town asleep in the faraway we are a naked soldier pointing to the sky and facing the sea.

And now we are floating out swimming with monotonous fatalism bathed in final beneficient liberty (until the sky becomes dark, the stars scintillate and the town turns on its light).

Then suddenly we feel the coldness of the deep and pulled by the waves when we turn to look for the last time at the stars.

Translation of
Patrick Gallagher- Saigon1998

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

Lời ca của im lặng - The sound of silence


Ký họa Quế Anh (sáp màu trên giấy) Im Lặng - Silence



The Sound of Silence


To listen to the silence of the night

Over the deafening sound of the rain

To discover life-mysteries

When all is wandering nothingness


We look for the way to go back

To Eden for our lost happiness

We try to survive our pains

When our love is fading away


I have come to the poet’s shadow

For the wise sayings which gave me

Pause of struggles and peace in defeats


But to love you and not to keep you

I heard counterpoint in melody

Resounding echo of the gloomy silence

2005

(from the original french version below)


Lời Ca của Im Lặng


Lắng nghe lắng nghe trầm lặng của màn đêm

Khi ngoài trời vang động tiếng mưa rơi

Và nhận ra sự sa lầy của dục vọng

Khi tất cả lặng chìm vào hư vô


Chúng ta vẫn cố tìm

Thiên đàng xưa đã mất

.............................và tìm trong truyệt vọng

Chúng ta cố vượt khỏi những đau thương

Khi tình yêu không ở lại cõi vô thường


Yêu em và anh sẽ yêu em

Dù lời thơ đã lắng dần trong đêm tối

Không cho anh yên nghỉ bước chân đời


Yêu em và anh vẫn yêu em

Dù điệp khúc nay khắc khoải lời đối điệu

Và trời đất không còn vọng lại tiếng dư âm

Tháng 3.2009



(Le poème original)

A l’écoute du Silence


Pouvoir écouter le silence de la nuit

Même s’il est troublé par le bruit de la pluie

Et pour saisir la vérité de l’existence

Même s’il n’est que le vide de la mouvance


Nous cherchons chemin de retour au paradis

Souvenir rappelant le bonheur qui existe

Persistons à vivre les peines de la vie

A la lumière de nos amours qui périssent


Il était une fois à l’ombre du poète

Telles paroles siennes avaient pu donner

Trêve de mes combats et paix de mes défaites


Mais de t’avoir perdue n’ayant pas su t’aimer

Il me revient le contrepoint de mélodie

Echo du silence de ma mélancolie

1999

(extrait du recueil Papyrus-Ngo Van Tao 2000)

Pasolini - Theorema


Quế Anh (oil pastel on paper) Ly rượu – Our cup of wine


Pasolini – Theorema

How are we going to live
If any minute could be our last moment
We’ll drink the anguish wine
And drain our cup to the dregs

We’ll open our wings to the night sky
To catch the echo of our soul’s silence
Of this instant, we might have a miracle
But to live is to forget and stay wordless

Let’s go to the seaside where there is no God
With the ephemeral joy of may-flies
Go to the Hydra’s gloomy meeting

The dagger for all our sinful loose amours
Onward to the darkness’s rendezvous
The very bottom of the ever fleeting life-abyss
nvt-2009


Thiêu thân

Làm sao đây tôi sống giây phút này
Mỗi giây phút cuối cùng của cuộc đời
Tôi sẽ cạn ly đến tận bã rượu
Chén rượu vang đắng của phận người

Tôi muốn bay vào đêm thật sâu
Dang cánh bắt tiếng vọng của tâm hồn
Sát na huyền diệu chắc tôi sẽ sống
Sống để quên và không nói một lời

Ôi! Hãy cùng tôi ra bãi biển
Nơi không còn có một Thượng Đế nào
Với đôi cánh thiêu thân và thần chết

Chiếc đao thần sẽ cắt hết nhân duyên
Tình yêu tội lỗi
………………..tôi thật muốn chết
Cõi tạm ngàn đời giấc ngủ triền miên
nvt-2009

Le sonnet original
Pasolini – Theorema

Comment devrons-nous vivre si toute minute
De notre vie peut être notre ultime instant
Nous buvons le vin jusqu’à la dernière goutte
Ou en laissons le lie-étang de nos tourments

Nous ouvrons nos ailes dans l’infini nocturne
Pour attraper le silence de nos échos
Du fragile instant, le miracle nous retourne
Vivre est d’oublier et de taire le bruit des mots

Allons à la plage où aucun Dieu ne viendra
Avec la joie éclatante des éphémères
Au devant de l’Hydre qui se révelera

Dague-châtiment de nos amours-sacrilèges
Chargée pourtant de notre désir de mourir
Au fond du gouffre de l’éternel devenir
1999
(extrait du recueil Papyrus- Ngo Van Tao 2000)

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2009

Thomas Mann


Ký họa Quế Anh (oil pastel on paper) Vô đề - Abstract




In the following are some extracts of Thomas Mann’s writing, translated in french and taken from “La mort à Venise” (i.e. “Der Tod in Venedig” -The death in Venetia- german novel translated by Axel Nesme and Edoardo Costadura). In some sense, they constitute a short manifesto of the great german writer Thomas Mann (Nobel prize 1929), manisfesto about art works and the fact to be truely an artist.

A great artist, to be honored, must be the one who would never during his life time stop working for his art.

A master-piece of art, applauded by the public, has always a hidden affinity between the destiny of its author and the history of his contemporary society. The grand public could give hundred reasons for their preferences, but in fact it is at the end an imponderable fact, their sympathy for the art work.

The evolution of the artist, during his life, is his destiny, the “becoming”. But to “become” is, as would say the german philosopher F.Hegel, to overcome inherent contradictions. A contradiction that the artist has to confront, is to give in his work some moral value or to surpass any moral precept and have only for his work the formal drive for beauty and the unexplained passion of his heart. The second choice could be “moral”, as the art work in its formal presentation could reflect the determination of an artisan deeply involved in his work, but it could be -the artist should know it- “im-moral” in the way that the art work reflects then some indifference of the author to all moral problems, a simplification and a schematization of the world and of the soul, including all in the author’s life vision, which can be selfish and absurdly absolute.

In any way, the artist has to assume his evolution away from the glow of glory – public adulation. He has to become by himself, and works for his art with his game playing, his resolve and his passion.

nvt


Thomas Mann (des extraits)

….

(Il était) depuis toujours soutenu qu’on devait seul qualifier de véritablement grand, vaste et même digne d’honneur le génie artistique auquel il était accordé de créer, à toutes les époques de la vie, des oeuvres significatives.

….

Pour qu’un produit majeur de l’esprit soit capable d’avoir aussitôt un effet vaste et profond, il faut qu’une affinité secrète, qu’un accord même existe entre le destin personnel de son auteur et celui, général de ses comtemporains. Les hommes ne savent pas pourquoi ils célèbrent une oeuvre d’art. A mille lieues d’être des connaisseurs, ils croient y découvrir cent qualités qui justifient d’autant leur intérêt, la véritable cause de leur approbation est un impondérable, c’est la sympathie.

…..

Il est certain que le souci de profondeur le plus grave le plus consciencieux n’est que superficialité, comparé à la détermination profonde du maître accompli de renier le savoir, de le récuser, de passer outre la tête haute pour peu que ce savoir soit en rien susceptible de paralyser, de décourager, d’avilir la volonté, l’action, le sentiment et la passion elle-même.

…..

Mais la fermeté morale au-delà du savoir, de la connaissance corrosive et paralysante, n’aboutit-elle pas en revanche à la simplification et à une schématisation morale du monde et de l’âme? Et la forme n’a-t-elle pas un double visage? N’est elle pas à la fois morale et im-morale, morale en tant que résultat et expression de la discipline, mais im-morale et même anti-morale dans la mesure où elle renferme par nature une indifférence morale et s’efforce même essentiellement de soumettre ce qui est moral à son sceptre orgueilleux et absolu?

….

Quoiqu’il en soit, une évolution est un destin. Comment celle qu’accompagne la sympathie, la confiance générale d’un vaste public, pourrait-elle ne pas se dérouler autrement que celle qui s’effectue sans l’éclat et les obligations de la gloire?

…..

Combien grande est en outre la part du jeu, du défi, du plaisir dans la formation d’un talent par lui-même?

(extraits du roman : La mort à Venise, traduction de Axel Nesme et Edoardo Costadura)



Dưới đây là những câu trích từ quyển truyện :”Trở về chết ở Venetia(Der Tod in Venedig) của Thomas Mann, đại văn hào người Đức, giải thưởng Nobel năm 1929. Tôi mạn coi như là một bản tuyên ngôn của Thomas Mann về nghệ thuật và nghệ sĩ.

Một nghệ sĩ, đại nhân tài, xứng đáng với hào quang danh vọng phải là người nghệ sĩ suốt cả đời mình không ngừng sáng tạo.

Một tác phẩm nghệ thuật được quần chúng tôn vinh, thường là vì sinh mệnh của tác giả gắn liền với sinh mệnh của những kẻ đồng thời. Đại quần chúng có thể đưa ra hàng trăm lý lẽ tại sao họ tôn vinh tác phẩm, nhưng cốt yếu vẫn là một sự không tiên lượng được, sự cảm thông tình cảm đối với tác phẩm.

Người nghệ sĩ bắt buộc phải sinh thành (becoming). Mà sinh thành là vượt qua những mâu thuẫn (F.Hegel). Một mâu thuẫn mà người nghệ sĩ đối mặt, là có cần phải cho tác phẩm của mình một giá trị tinh thần (đối với xã hội) hay là chỉ sáng tạo theo lẽ mỹ, theo nhịp đập của trái tim…Dưới hình thức này, người nghệ sĩ có thể đã chối bỏ mọi giá trị tinh thần, giản lược hóa và tự quy đinh thế giới và tâm hồn, trong một nhân sinh thế giới quan tự kiêu và khắt khe tuyệt đối.

Dù sao đi nữa, người nghệ sĩ sinh thành là sinh thành theo định mệnh của chính mình, ngoài vòng ánh sáng hào quang của danh vọng. Sáng tạo theo định hướng tâm linh, kiên trì với hoài bão và ước muốn của bản thân mình.

nvt 5.2009

Thomas Mann (trích)

……

Có nhận định từ xưa rằng nghệ sĩ nhân tài thật lớn, thật rộng và xứng đáng với danh vọng, người nghệ sĩ đó phải suốt đời kiên trì sáng tạo.

……

Những tác phẩm nghệ thuật lớn có ngay tiếng vang sâu và rộng, thường tiềm ẩn sự liên đới, sự tương đồng giữa định mệnh của nghệ sĩ với bối cảnh lịch sử của xã hội xung quanh. Đại quần chúng thật không biết vì sao họ tôn vinh một tác phẩm. Làm sao có đủ kiến thức để thẩm định, họ đưa ra hàng trăm lý lẽ, nhưng thật cốt yếu vẫn là một cái gì không tiên lượng được, đó là sự cảm thông của trái tim với tác giả.

…….

Những nghệ sĩ chín chắn và thật tình, hoài bão sáng tạo công trình nghệ thuật có chiều sâu ý thức, nhưng thường chỉ là hào bóng bề ngoài, đối chiếu với ý chí sâu xa của những bực thầy, những nhân tài nghệ sĩ lớn biết từ bỏ hay hơn nữa phủ nhận mọi kiến thức, hiên ngang sáng tạo vượt lên trên mọi hiểu biết nếu cái biết đó chỉ làm tê liệt, thoái chí, hủy hoại định hướng sáng tạo, cảm thức với say mê.

…….

Nhưng sự kiên định vượt lên trên mọi kiến thức - những cái biết làm hao mòn và tê liệt – cũng có mặt trái là nó đưa đến sự giản lược hóa và quy định thể thức của thế giới và tâm hồn. Một sự hình thức hóa, với hai mặt của nó? Vừa là có một giá trị tinh thần, vừa là vượt lên trên mọi giá trị đó. Có một giá trị tinh thần vì đó là thành tựu trình diễn của nghệ nhân để hết tâm chí trong việc làm. Nhưng không đặt câu hỏi nào về giá trị tinh thần, hay đúng hơn phủ nhận mọi đạo lý, sự hình thức hóa tiềm ẩn sự lãnh đạm trước đời sống tinh thần và có thể hơn nữa là quy hồi mọi đạo lý vào một viễn tượng tự kiêu và tuyệt đối.

……

Dù sao đi nữa, đó là sự sinh thành trong định mệnh. Nhưng một tài ba dù có triển khai trong sự cảm tình, ngưỡng mộ của đại quần chúng, vẫn chỉ thật tự tiến triển và lớn lên ngoài vòng ánh sáng hào quang của danh vọng!

Thật lớn là phần hiếu kỳ, phản kháng, đam mê trong sự thành tựu của một tài nghệ chân chính đối diện với chính mình!

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2009

Cho một thế giới hoàn mỹ - For a better world

Quế Anh (acrylic on canvas 50x70cm)
Cho một thế giới khác - For a new world



BUI GIANG
FOR A BETTER WORLD


You came from the sufferings-land
Bringing us, poet, rays of hope
Gracious song for the fair lady
Over unwanted rencontres

Against the mighty waves of history
You enforced freedom of the mind
Perceiving our hardship and utopia
You had the wisdom of the heart

Our companions in humility
Grown up in disasters and hunger
You realized compassion for human drama

The earth is ready for furture bulbs
Autumn leaves are flowers under the sun
You opened the dream for a better world


Bùi Giáng Cho một thế giới hoàn mỹ

Thi nhân đến từ đất khổ
Anh mang ta sứ mạng của ngày mai
Bài ca nhẹ nhàng cho người đàn bà chung thủy
Gặp bên đường mà không một lần hứa hẹn

Trước đợt sóng tàn bạo của lịch sử
Anh lãnh đạm và không k‎ý‎ ức
Những đấu tranh không đi về đâu
Những ảo tưởng hư hư thực thực
Anh có lời dịu dàng và ta biết nghĩ

Những bạn bè anh em gần xa
Lớn lên trong nhục nhằn và bất hạnh
Anh cảm thương phận nhỏ con người
Trái đất đây mầm non với tuổi thơ
Lá vàng là hoa nở dưới trời thu
Anh mơ cùng ta tới địa đàng hoàn mỹ

Ngô Văn Tao © gio-o 2008


Pour un monde meilleur

à Bùi Giáng



Poète, tu nous viens de la terre souffrante
Tu nous apportes message de l’espérance
Mélodie de la femme qui se veut fidèle
A toute rencontre fugitive et nouvelle

Contre débordements furieux de l’histoire
Tu retiens l’indifférence de la mémoire
Pour nos luttes vaines, anciennes utopies
Tu as les paroles douces de nostalgie

Mais aux hommes, à nos frères de pays lointains
Qui sont agrandis dans leurs peines et souffrances
Tu as le chant de l’humilité du destin

Sur la terre promise aux germes de semence
Les feuilles sont des fleurs au soleil de l’automne
Tu ouvres le rêve à un autre ordre du monde

1999 (extrait du recueil :Papyrus-Ngo Van Tao 2000)

Thi nhân là một con bồ câu trắng - The poet as a dove


Ký họa Quế Anh (sáp màu trên giấy)
Bay bay cánh chim - Flying as a bird



Bùi Giáng

Le Poète qui est une colombe


Volant volant dans le ciel comme une colombe

Au-dessus du tumulte, ailes de la douceur

Des combats inégaux pour tout héros qui tombe

Le relever, j’aurai la force de mon coeur


Etre égaré dans le labyrinthe des hommes

Que serais-je à rêver aux nuages bleutés?

Entre haine et amour, de lumières et ombres

J’aurai le fil ténu des poèmes murmurés


En vrai, je suis mal pris de mon esprit absent

Pour ne pas voir sous les masques le vrai visage

Des doctes qui restent faux et incohérents


Perdu dans leur banquet, tel hôte de passage

Acteur figurant dans la vaine comédie

Reprendrai-je le chant céleste de la vie?

1999



Bui Giang

The poet as a dove

Oh! Flying in the sky as a dove

Away from the world with its frail wings

For the heroes, fallen in unequal combats

I have only the strength of my heart


Wandering in the daily existence meander

Do I know how to fly back in the sky?

Between lights and shadows, hate and love

Do I have poetry of the soul?


Caught in the earthly society

Of men who have so much vanity

Spectator unwilling and conscious


Of the bitterness in their human drama

I keep on singing the celestial life song

To take flight with the eastern wind

2005



Bùi Giáng

Thi nhân là một con bồ câu trắng



Chỉ là đôi cánh mỏng manh

Chập chờn mây nước trăng sao cuối trời

Cánh mang những nỗi buồn đi

Anh hùng ngã ngựa không người đỡ chân


Em ơi! Gió lạc phương nào

Tình xưa còn đó sao đành chia ly

Chỉ là một bóng chim bay

Bay qua thế tục xa lìa trần gian


Chìm trong cát bụi địa đàng

Người thành người bại tiếng than tiếng cười

Trắng đen theo gió đổi màu

Đắng cay chén rượu vàng thau cõi đời


Làm thi sĩ như bóng chim

Một bồ câu trắng bay tìm nguồn thơ

Tìm người trong một giấc mơ

Xuân xanh ngày ấy vườn mai thuở nào

Cánh chim dưới ánh trăng vàng

Ý sâu hội ngộ tình riêng ngậm ngùi

2005

Ngô văn Tao